Ngô Thụy Miên, Lê Uyên Phương, Từ Công Phụng, Trịnh Công Sơn và Vũ Thành An tạo thành một nhóm “ngũ nhạc” làm rạng danh bầu trời âm nhạc Việt Nam suốt những thập niên 50, 60 và 70 của thế kỷ trước. Họ chính là đại diện tiêu biểu cho một thế hệ cầm bút viết tình ca bằng những đứt đoạn con tim, trái ngang và day dứt khôn nguôi của tình chia lìa. Sau những triết lý về kiếp đời trần ai của Trịnh Công Sơn, những cuộc tình sầu bi của Từ Công Phụng và sự lãng mạn, mơ hồ với những vết thương ngọt lịm cứa sâu vào tim của Ngô Thụy Miên… khán giả Sài Gòn nói riêng và khán giả trên ba miền dọc chiều dài đất nước nói chung không khỏi ngỡ ngàng với một loạt những sáng tác không tên của nhạc sĩ tài năng Vũ Thành An.
Nhạc sĩ Vũ Thành An
Cuộc đời như đại lộ không đèn
Nhạc sĩ Vũ Thành An sinh năm 1943 tại Hải Hậu, Nam Định. Năm 1954, ông bắt đầu theo gia đình di cư vào Sài Gòn. Trong thời kỳ học sinh, Vũ Thành An theo học âm nhạc trong lớp học của nhạc sĩ Chung Quân cùng Ngô Thụy Miên và Đức Huy. Ông tham gia hoạt động âm nhạc, nghệ thuật rất tích cực và thể hiện rõ những ưu điểm, khả năng sáng tác ca khúc.
Năm 1959, Vũ Thành An sáng tác ca khúc đầu tay và bị nhạc sĩ Chung Quân hết lời chê bai. Nhớ về kỷ niệm này, ông vẫn còn nói vui: “Tôi chỉ muốn nói với các bạn trẻ rằng, bước vào con đường âm nhạc sẽ luôn gặp khó khăn, gập ghềnh. Và đừng vội vàng vì những lời khen, chê mà tỏ ra nản chí”. Sau đó, ông chuyển sang sáng tác những ca khúc não tình, già dặn và từng trải hơn so với tuổi đời của mình rất nhiều. Những nhạc khúc: Bài không tên số 2, Bài không tên số 6, Bài không tên số 8…lần lượt ra đời, tạo thành một chùm các ca khúc không tên với thanh âm đau đớn, khắc khoải, bộc lộ tâm trạng chán chường, ủ rũ của tác giả. Bắt đầu từ đây, cái tên Vũ Thành An gắn với một loạt những tình khúc không tên.
Mặc dù vô cùng say mê với nghệ thuật sáng tác ca khúc nhưng đến năm 1965, Vũ Thành An cũng tạm thời…bỏ quên con đường sáng tác của mình khi vào làm phóng viên tại đài phát thanh Sài Gòn. Chính nơi đây đã chắp nối cho mối lương duyên giữa ông và nhà thơ Nguyễn Đình Toàn, người sau này đã giúp Vũ Thành An “mượn hồn thi ca để sáng tạo âm nhạc”. Tình khúc thứ nhất ra đời từ cuộc chuyển giao trên mảnh đất văn chương và trở nên nổi tiếng ngay lập tức.
Những năm tháng sau đó, Vũ Thành An tiếp tục chắp bút viết một loạt những bài không tên khác. Cũng chính năm 1965, cuộc tình đẹp như cổ tích của ông với người bạn gái đầu tiên đã chấm dứt sau những tháng ngày đau thương, rạn vỡ. Chính nỗi đau chia lìa thời tuổi trẻ sôi nổi đã khiến Vũ Thành An thăng hoa với bản nhạc tình đến giờ vẫn còn làm lay động hàng ngàn đôi tai khán giả: Bài không tên cuối cùng. Ca khúc này trở nên phổ biến với rất nhiều khán giả, đặc biệt là giới trí thức Sài Gòn ngày đó. Họ nghe nó ở bất cứ đâu và trong các buổi văn nghệ.
Bài không tên cuối cùng luôn nhận được sự ủng hộ nhiệt tình nhất. Sức lan tỏa mạnh mẽ, rộng rãi của tình khúc này đã khiến tên tuổi Vũ Thành An trở nên nổi tiếng hơn bao giờ hết. Chữ “cuối cùng” mà sau này Vũ Thành An giải thích “ở đây mang ý nghĩa đó là kỷ niệm cuối cùng với người con gái mà tôi đã thầm yêu” và nó cũng là mở đầu cho một loạt những bài ca không quên khác ra đời lần lượt sau đó.
Lời ca “Từng người tình bỏ ta đi như những dòng sông nhỏ. Ôi những dòng sông nhỏ, lời hẹn thề là những cơn mưa” của “người viết tình ca” Trịnh Công Sơn tự khi nào lại nên thân quen, gần gũi và phù hợp với tâm trạng, hoàn cảnh của Vũ Thành An đến thế. Sau một cuộc tình buồn, ông tiếp tục nếm trải hương vị chia ly của mối tình thứ hai và lúc này Bài không tên số 2 lại ra đời đánh dấu “chữ ký âm nhạc” Vũ Thành An, người chuyên viết bi ca trên địa hạt âm nhạc Sài Gòn thời đó.
Đến năm 1969, Vũ Thành An quyết định chấm dứt đời độc thân, kết thúc những đoạn tình buồn của mình bằng cách lập gia đình và cho phát hành tuyển tập những bài không tên. Các nhạc phẩm được thể hiện qua giọng ca ngọt ngào của nữ ca sĩ Thanh Lan trên sóng phát thanh và đặc biệt là phong trào du ca Sài Gòn tại hội quán Văn cùng thời điểm với cặp song ca đình đám Trịnh Công Sơn – Khánh Ly. Cuộc hội ngộ âm nhạc đó trở thành dấu son sáng ngời trên con đường sự nghiệp, cống hiến cho vòm trời Tân nhạc Việt Nam của nhạc sĩ Vũ Thành An.
Vì những lý do chính trị, sau năm 1975, Vũ Thành An đã có 10 năm sống trong trại cảo tạo (1975-1985). Thời gian này, Vũ Thành An trở nên nhạy cảm và bắt đầu chuyển hướng âm nhạc. Từ một người chuyên sáng tác nhạc não tình, bi thương Vũ Thành An viết nhạc Thánh ca và tuyên bố không bao giờ viết nhạc tình nữa. Theo lời Vũ Thành An, ông bắt đầu sáng tác Thánh ca, những baầi Nhân bản trong thời gian cải tạo từ năm 1981. Đối với nhiều người yêu mến âm nhạc của ông, đây là một sự đổi thay mang nhiều tiếc nuối. Biến cố quan trọng giai đoạn này của Vũ Thành An là được rửa tội và bước vào Thiên chúa giáo. Ông lập lại gia đình lần hai và chính thức di cư sang Mỹ sinh sống như nhiều văn nghệ sĩ Sài Gòn thời bấy giờ vào năm 1991.
Nhạc sĩ Vũ Thành An hạnh phúc với công việc từ thiện hiện nay
Đạo trong âm nhạc
Giữa khói lửa chiến tranh lúc đó, nhạc tình của Vũ Thành An là nơi ẩn trú cho những tâm hồn mệt mỏi, cô đơn. Cuộc đời thật bất an, ngắn ngủi giữa chốn đạn lạc tên bay; và khi người lính ngả lưng nằm nghỉ bên đồi, bật lên một làn sóng radio tình cờ, thì nhạc của ông lúc đó đã như thoáng mây bay giữa trời, gợi lên hình ảnh người bạn gái năm xưa, thật nhạt, thật mờ nhưng có thể làm cay khóe mắt.
Chính thập niên 1960 cũng là thập niên kỳ dị nhất của âm nhạc Việt Nam. Phạm Duy và một số nhạc sĩ đồng vai vẫn sáng tác mạnh mẽ. Nhưng bên cạnh đó, giới âm nhạc cũng xuất hiện thêm nhiều tài năng lớn, và mỗi người với một sự độc đáo riêng. Trịnh Công Sơn, Lê Uyên Phương, Từ Công Phụng và dĩ nhiên Vũ Thành An. Thời này, những thử nghiệm âm nhạc cũng được đẩy xa hơn, như với phong trào nhạc trẻ. Không phải vì chiến tranh dữ dội mà các nhạc sĩ phải đi tìm một thế giới tư riêng của thơ mộng. Nhạc tình Vũ Thành là một kết hợp của âm điệu nhẹ nhàng, lả lướt với lời hát như quyện vào tâm hồn người nghe. Những đau thương, trách cứ, giận hờn theo từng cung bậc dồn vào tâm khảm đến rã rời, nó trở thành dấu ấn lãng mạn của thời nhạc Vàng.
Khi định cư tại Mỹ, Vũ Thành An sáng tác nhiều nhạc phẩm mang phong cách và ca khúc đổi thay hơn xưa. Nhưng rồi thất bại, ông viết tiếp Bài không tên cuối cùng tiếp nối như một chấp nhận hiện thực của sự trở về.
Tên tuổi của nhạc sĩ Vũ Thành An đã gắn liền với những khoảng đời của tuổi trẻ Việt. Những dòng thơ của Nguyễn Đình Toàn, trong Tình khúc thứ nhất và Em đến thăm anh đêm ba mươi vẫn lơ lửng, phảng phất trong đầu của những người một thời ngồi các quán cà phê bên đường Sài Gòn và tập hút những điếu thuốc đầu tiên trong đời của các năm 60.
Hương Giang