Những người ký tên - trong đó có chủ nhà bang Lloyd C. Blạkfein, nhà tư bản tài chính Ronal O. Perelman, nhà kinh doanh bất động sản Jerry I. Speyer và chủ hãng xuất bản Mortimer B. Zuckerman - đã tuyên bố công khai rằng việc hợp pháp hóa hôn nhân đồng giới sẽ “giúp duy trì sự thuận lợi đầy sức cạnh tranh của chúng ta trong việc thu hút những con người tài năng nhất, ưu tú nhất trên thế giới”.
Bức thư này thực ra cũng chỉ là một ví dụ gần đây nhất của xu thế hướng tới việc xúc tiến hôn nhân bình đẳng giống như một yêu cầu đối với các doanh nghiệp, các nguồn ngân sách của địa phương và của quốc gia. Khi mà những tranh luận này đang lôi cuốn ngay từ ban đầu và có thể ảnh hưởng mang tính chính trị chỉ thoáng qua, thì rốt cuộc họ cũng làm tổn thương cuộc đấu tranh không mệt mỏi đối với sự bình đẳng của những người đồng giới.
Nhìn bề ngoài, thật khó để không đồng ý với vấn đề kinh tế của hôn nhân đồng giới. Các bang và các thành phố đang cạnh tranh nhau để thu hút nhân tài trên toàn cầu nhằm ganh đua trong thị trường lao động. Dĩ nhiên, nền công nghiệp cưới hỏi sẽ có lợi nhuận khi mà ngày càng có nhiều đôi được phép kết hôn.
Hôn nhân bình đẳng sẽ kết hợp với lợi tức đạt được từ thuế mua bán và lệ phí đăng ký. Những người ủng hộ hôn nhân đồng giới nói ra những lợi ích công khai từ việc “du lịch hôn nhân” tại các bang và rằng cần phải hợp pháp hóa hôn nhân đồng giới.
Viện nghiên cứu Williams về luật pháp định hướng giới tính của trường Đại học Califonia, Los Angeles đã chỉ ra lợi ích kinh tế đạt được tại riêng bang Massachusetts là 111 triệu đô la trong vòng 5 năm kể từ khi hôn nhân đồng giới được hợp pháp hóa. Văn phòng ngân sách Quốc hội ước tính rằng việc hợp pháp hóa hôn nhân đồng giới tại 50 bang sẽ mang lại 1 tỷ đô la thu nhập hàng năm trong giai đoạn 10 năm.
Việc tạo ra những luận cứ kinh tế này có thể có những mục đích tích cực. Tại sao những người đồng giới không thể có quyền bình đẳng một cách toàn diện khi mà họ cũng đóng góp tiền của cho quốc gia cũng như nền kinh tế của các địa phương? Tuy nhiên, việc ủng hộ hôn nhân cho các cặp đồng giới chỉ nhằm phục vụ cho các mục đích kinh tế là vô nhân đạo. Người Mỹ sẽ cảm thấy bị xúc phạm khi mà các giá trị của người đồng giới bị giảm sút.
Tại sao các cặp đồng giới không thể có những quyền lợi giống như những người hàng xóm bình thường của họ với tư cách là một công dân? Chúng ta sẽ phản ứng như thế nào nếu như quyền hôn nhân giữa những người đồng giới được dựa trên viễn cảnh rằng các mối quan hệ này sẽ tạo ra những chiều hướng kinh doanh tốt hoặc có thể bổ sung cho ngân sách quốc gia?
Với những mục tiêu chiến lược, những người đề xướng cho hôn nhân đồng giới thường chỉ ra rằng việc hợp pháp hóa hôn nhân đồng giới có vẻ phù hợp với các chương trình cắt giảm chi tiêu ngân sách quốc gia.
Giống như Viện nghiên cứu Williams đã lưu ý trong các tài liệu về các lợi ích kinh tế của hôn nhân đồng giới, một cuộc hôn nhân hợp pháp buộc hai bên phải có nghĩa vụ cung cấp và chăm sóc cho nhau, đảm bảo rằng họ không trở thành gánh nặng cho đất nước. Đó không phải là một điều tiêu cực nếu như bạn có thể đủ khả năng làm điều này, nhưng nhiều người đồng giới nam và đồng giới nữ thì không thể.
Những người ủng hộ hôn nhân đồng giới phải thừa nhận rằng hôn nhân không chỉ là sự biểu lộ tự nhiên về tính người hay một lời cam kết riêng tư mà nó còn là một “hình thức quản lý”. Cũng giống như bất kỳ cấu trúc quản lý nào khác trong một xã hội dân chủ, chúng ta nên nghĩ về những người tham gia với tư cách như là các công dân hơn là các khách hàng.
Vì vậy, nếu như bạn ủng hộ hôn nhân đồng giới, bạn đừng nên nghĩ nó sẽ mang lại thuế thu nhập và những đồng đô la từ dịch vụ du lịch và hạn chế số người là gánh nặng cho quốc gia mà bạn nên nhìn nhận những người đồng tính là những công dân xứng đáng có cơ hội bình đẳng về quyền lợi và trách nhiệm trong hôn nhân.
Chí Thành