Điều 7 Luật báo chí quy định: "Báo chí có quyền và nghĩa vụ không tiết lộ tên người cung cấp thông tin nếu có hại cho người đó, trừ trường hợp có yêu cầu của Viện trưởng VKSND hoặc Chánh án TAND cấp tỉnh và tương đương trở lên cần thiết cho việc điều tra, xét xử tội phạm nghiêm trọng”.
Nhà báo Mai Phan Lợi.
Giả sử điều 7 Luật Báo chí được Quốc hội thông qua, thưa ông, việc thêm cụm từ 'thủ trưởng cơ quan điều tra các cấp' vào so với Điều 7 hiện nay thì giá trị pháp lý và sự kiện thực tế sẽ khác gì nhau?
Nếu giả thuyết bạn nêu thành hiện thực thì sẽ thêm hàng ngàn người được cấp thẩm quyền truy nguồn tin của báo chí và nó sẽ thành một sự kiện chấn động với các nhà báo hoạt động trong lĩnh vực xác minh đơn thư, điều tra theo yêu cầu bạn đọc.
Bởi vì chỉ với tổ chức hiện có của Cơ quan Cảnh sát điều tra trong Công an nhân dân đã rất đông, chia thành 3 cấp chính: Cơ quan Cảnh sát điều tra Bộ Công an gồm có nhiều Cục; Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an cấp tỉnh gồm có nhiều Phòng và Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an cấp huyện gồm có nhiều Đội. Tương ứng với tổ chức của Cảnh sát điều tra còn có hệ thống thuộc Cơ quan An ninh điều tra, dù quy mô nhỏ hơn nhưng cũng trải rộng trên toàn quốc.
Cạnh đó là lực lượng điều tra của quân đội, của kiểm lâm, cảnh sát biển, hải quan…
Trong khi đó ngoài ông thủ trưởng cơ quan điều tra còn có khoảng 4-5 ông phó thủ trưởng cơ quan điều tra được ủy quyền thường xuyên của thủ trưởng.
Thêm nữa, đặc thù cơ quan điều tra ở Việt Nam lại có hình thức tổ chức thuộc khối hành pháp (như cơ quan điều tra của công an thuộc Bộ Công an), lệ thuộc về nhân sự, bộ máy, lương thưởng… nên về nguyên tắc ông thủ trưởng cơ quan điều tra còn phải báo cáo với cáo thủ trưởng cơ quan hành chính quản lý mình.
Như vậy cả về thực tế và pháp lý, nhà báo và cơ quan sẽ phải phục vụ nhiều loại đối tượng hơn rất nhiều so với hai đối tượng (viện trưởng VKS và chánh án tòa cấp tỉnh) quy định tại điều 7 Luật Báo chí.
Thực tế đã có nhiều trường hợp người tố cáo bị trả thù, dằn mặt đẫm máu xảy ra rồi, nên không phải tự nhiên có quy định cho báo chí giấu nguồn tin mà mục tiêu là nhằm bảo vệ họ. Quy định thêm như trên thì khả năng tên tuổi và những thông tin của người tố cáo gửi gắm ở báo chí bị lộ lọt sẽ xảy ra nhiều hơn.
Bí mật nguồn tin và việc bảo vệ chúng, theo ông, có vai trò như thế nào trong hoạt động của cơ quan báo chí và nhà báo?
Qua việc tổ chức hội thảo về chủ đề này vào giữa tháng 10 năm ngoái tại Hà Nội có sự tham dự của rất đông các nhà báo, Hội Nhà báo, Bộ Thông tin & Truyền thông, giới luật gia và cả lực lượng công an, chúng tôi thấy rằng bảo vệ nguồn tin là quy định pháp lý và cả đạo đức nghề nghiệp của mọi nền báo chí trên thế giới mà Việt Nam đã tiếp thu cả vào trong luật và quy định đạo đức nghề nghiệp của Hội Nhà báo.
Kết quả khảo sát, nghiên cứu với hơn 100 nhà báo điều tra ở 12 tỉnh của chúng tôi tiến hành năm ngoái cho thấy, người tố cáo vẫn còn rất tin cậy kênh thông tin báo chí. Cùng thời điểm, kết quả nghiên cứu của Thanh tra Chính phủ với Ngân hàng Thế giới cho thấy có một tỷ lệ cao các thành phần khác trong xã hội cho rằng báo chí đi trước cơ quan pháp luật trong phanh phui hành vi tham nhũng.
Từ đó thấy rằng, đối với người tố cáo thì báo chí hiện là một trong những lựa chọn tốt nhất của họ khi muốn đưa ra ánh sáng một hành vi xấu. Tại hội thảo năm ngoái, nhiều nhà báo có kinh nghiệm còn nói nguồn tin là yếu tố “sống còn” của báo chí, “bán” nguồn tin thì không ai dám cộng tác với báo chí nữa.
Năm 2012 khi dự thảo Luật phòng chống tham nhũng được đưa ra lấy ý kiến, cũng có quy định “cơ quan báo chí, phóng viên đưa tin về hành vi tham nhũng có trách nhiệm cung cấp thông tin, tài liệu theo yêu cầu của cơ quan có thẩm quyền để phục vụ cho việc xác minh, làm rõ hành vi tham nhũng”. Việc này và đề xuất của Bộ Công an hiện nay có giống và khác gì nhau về bản chất pháp lý?
Về bản chất thì tương tự nhau. Nhưng nếu đưa thêm vào Điều 7 Luật Báo chí hiện hành thì phạm vi lại hẹp hơn, bởi quyền này chỉ thực hiện khi điều tra tội phạm nghiêm trọng, tức là loại tội danh có hình phạt từ 7 năm trở lên. Tuy nhiên điều đáng quan tâm ở chỗ khi đã xác định có 1 hành vi có dấu hiệu tội phạm đến nghiêm trọng trở lên thì có nghĩa rằng một vụ án đã được khởi tố, và lúc ấy vai trò Viện kiểm sát đã được thể hiện ở việc phê chuẩn quyết định khởi tố ấy.
Vì thế có lẽ chẳng cần sửa Điều 7 làm gì vì nếu cần thiết ông viện trưởng Viện Kiểm sát vẫn có thể sử dụng quyền hạn đang dược quy định của Luật Báo chí để yêu cầu báo chí cung cấp nguồn tin.
Nhưng nếu không sửa nhiều ở điều 7 như dự thảo Luật PCTN trước đây thì lại quá rộng, có thể tiến hành ngay giai đoạn trinh sát, và hành vi tùy tiện rất có thể xảy ra…
Ông có thể cho biết mô hình bảo vệ nguồn tin của báo Pháp luật TP Hồ Chí Minh, nơi ông công tác hoặc mô hình bảo vệ nguồn tin báo chí mà ông từng nghiên cứu, từng biết hay không?
Ngoài việc thực thi đúng quy định tại Điều 7 Luật Báo chí và Quy chế xác định nguồn tin của Bộ Thông tin & Truyền thông, Báo Pháp luật TP HCM còn có Bản Quy chuẩn ứng xử của những người làm báo Pháp luật TP HCM. Bản quy chuẩn này đề cập tới nhiều hành vi ứng xử của người làm báo, nhưng đặc biệt nhấn mạnh nghĩa vụ bảo vệ nguồn tin, ngay cả với đồng nghiệp trong cơ quan, nếu việc tiết lộ nguy hiểm cho người cung cấp thông tin. Ngoài ra là tờ báo pháp luật nên các thông tin liên quan đến vấn đề này đều được ưu tiên.
Trong quá trình nghiên cứu về báo chí địa phương phòng chống tham nhũng, chúng tôi cũng gặp nhiều mô hình tốt chấp hành Luật Báo chí và quy định về đạo đức nghề nghiệp của Hội Nhà báo Việt Nam. Trong các phản ánh của nhà báo ở địa phương thì đối tượng can thiệp trái thẩm quyền chủ yếu là công an địa phương, và đều ở yêu cầu báo chí cung khai nguồn tin.
Hiện nay chúng ta có thêm Luật Tố cáo và có đã văn bản hướng dẫn về bảo vệ người tố cáo nên tôi nghĩ vấn đề rất cần là truyền thông mạnh mẽ về chủ đề này và phát huy nó trên thực tế.
Cách đây mấy năm, Bộ Công an đề xuất Quốc hội thông qua điều luật xem các tài liệu trinh sát của cơ quan điều tra, trong đó có việc băng ghi âm nghe lén điện thoại là chứng cứ trong vụ án hình sự. Theo ông, điều này có sự giống hay khác nhau với đề xuất của Bộ Công an đối với Điều 7 Luật báo chí hiện nay hay không?
Các tài liệu trinh sát mà Bộ Công an đề xuất so với tài liệu báo chí sử dụng là không giống nhau, ít nhất là chủ thể thu thập thông tin. Công an áp dụng các biện pháp trinh sát để xác định dấu hiệu nghi vấn phạm tội, muốn xử lý họ sẽ tiến hành quy trình tố tụng và các thông tin họ sử dụng sẽ rất hệ trọng bởi lý do rất đơn giản là kết quả làm việc của họ sẽ là các quyết định tố tụng. Các quyết định này sẽ ảnh hưởng rất lớn đến quyền, tài sản và thậm chí sinh mệnh người dân.
Còn tài liệu báo chí thu thập là phục vụ các đối tượng công khai, kết quả làm việc của nhà báo chỉ là các bài báo và bài báo thì không phải là quyết định tố tụng nên mức độ ảnh hưởng ít hơn.
Do đó tại điều 100 Bộ luật mới có quy định “tin báo tội phạm trên phương tiện thông tin đại chúng” là căn cứ khởi tố vụ án, nghĩa là cơ quan tố tụng lại phải điều tra xác minh lần nữa.
Xin cám ơn ông.
Hiến pháp nước ngoài quy định: "Không phóng viên hợp pháp nào buộc phải tiết lộ thông tin theo yêu cầu của Chính phủ hay bị bỏ tù vì từ chối không tiết lộ thông tin có được trong quá trình điều tra tác nghiệp”. (Đọc toàn bài tại đây). |
> Những mô hình và tổ chức bảo vệ nhà báo tối ưu trên thế giới
Việt Dũng (thực hiện)