Tại Hội thảo “Quy hoạch phát triển điện lực Quốc gia giai đoạn 2021-2030, tầm nhìn tới năm 2045” (còn gọi là quy hoạch điện VIII) sáng 28/9, ông Hoàng Quốc Vượng – Thứ trưởng bộ Công Thương cho biết, đề án quy hoạch này về cơ bản đã hoàn thành, bộ Công Thương sẽ báo cáo Thủ tướng Chính phủ vào tháng 10/2020.
Theo quy hoạch điện VIII, dự kiến tổng công suất nguồn điện sẽ tăng thêm khoảng gần 80.000 MW so với năm 2020. Trong đó, các nguồn điện lớn như các nhà máy nhiệt điện than, khí và khí thiên nhiên hoá lỏng (LNG) dự kiến sẽ tăng thêm khoảng trên 30.000 MW; các nhà máy điện gió trên bờ (onshore), nhà máy điện gió ngoài khơi (offshore) và điện mặt trời dự kiến tăng thêm khoảng gần 30.000 MW.
“Phần lớn các nguồn điện này đều tập trung nằm xa trung tâm phụ tải. Vì vậy, công tác phát triển lưới truyền tải để giải tỏa công suất các nguồn điện này đặt ra nhiều nội dung cần xem xét và nghiên cứu. Xu hướng truyền tải điện sẽ có nhiều thay đổi trong thời gian tới. Thay vì truyền tải điện từ miền Bắc vào miền Nam như những năm qua, chiều truyền tải có xu hướng thay đổi dần theo chiều ngược lại”, ông Vượng nói.
Ông Hoàng Quốc Vượng – Thứ trưởng bộ Công Thương.
Theo ông Vượng, đề án lần này không chỉ nhằm đáp ứng nhu cầu sử dụng điện của nước ta trong giai đoạn tới, quan trọng hơn là tạo ra sự liên kết mạnh giữa hệ thống điện Việt Nam và các nước trong khu vực, hướng tới thị trường điện cạnh tranh.
Theo báo cáo của viện Năng lượng (bộ Công Thương), hiện hệ thống điện được phân chia thành 6 vùng, gồm: Bắc Bộ, Bắc Trung Bộ, Trung Trung Bộ, Tây Nguyên, Nam Trung Bộ và Nam Bộ và 19 tiểu vùng để tính toán cơ cấu nguồn từng vùng và quy mô truyền tải liên vùng, gồm công suất, sản lượng, chiều truyền tải.
Quy mô nguồn điện bao gồm tất cả các nguồn điện hiện trạng và đã được đăng ký khoảng 2.200 dự án, tương đương 220GW. Nhiều vùng, tiểu vùng có quy mô nguồn đăng ký lớn hơn rất nhiều phụ tải khu vực đó.
Ông Nguyễn Mạnh Cường - Phó Trưởng phòng Phát triển hệ thống điện, viện Năng lượng (bộ Công Thương).
Ông Nguyễn Mạnh Cường - Phó Trưởng phòng Phát triển hệ thống điện, viện Năng lượng (bộ Công Thương) cho hay, việc thiết kế hệ thống lưới truyền trải đảm bảo “đi trước một bước”.
“Hiện đang có sự thiếu cân đối giữa công suất nguồn đăng ký với phụ tải, giữa các vùng, tiểu vùng và các tỉnh. Các nguồn điện hiện đăng ký tập trung quá nhiều tại miền Trung, miền Nam. Đến năm 2030, Nam Bộ và Nam Trung Bộ đăng ký dư khoảng 80 GW, Tây Nguyên dư 18GW. Nếu tất cả các nguồn đăng ký đầu tư thêm đều được phê duyệt (162,5GW) thì tổng công suất nguồn toàn quốc năm 2030 sẽ dư 137GW (dư 162%). Do vậy, đến năm 2030 sẽ chỉ có một phần nguồn điện đăng ký được phê duyệt bổ sung quy hoạch. Lượng công suất nguồn còn lại xem xét phát triển trong giai đoạn 2031-2045.
Dự kiến đến năm 2030, miền Bắc có xu hướng bị thiếu nguồn, cần nhận điện từ Vùng lân cận như Bắc Trung Bộ, Trung Trung Bộ và Tây Nguyên. Đến 2045, Nam Trung Bộ và Tây Nguyên sẽ là 2 khu vực nguồn lớn của cả nước, cần truyền tải đi xa tới các vùng khác”, ông Cường nói.
Ông Cường cũng cho rằng, trong 10 năm tới, trung bình mỗi năm cần đưa vào vận hành 1.200 đường dây 500kV (trung bình hiện nay 400 km/năm), 2.000km đường dây 220kV (trung bình hiện nay hơn 1.000km/năm). Như vậy, đầu tư lưới truyền tải 500-220kV giai đoạn 2021-2030 sẽ là thách thức rất lớn cho ngành điện.
Tốc độ tăng trưởng phụ tải giai đoạn 2021-2030 được dự báo vẫn ở mức cao, khoảng 8,6% giai đoạn 2021-2025 và 7,2% trong giai đoạn 2026-2030. Kịch bản phát triển nguồn điện tối ưu là kịch bản đáp ứng các mục tiêu đề ra của Nghị quyết số 55, hướng tới thân thiện với môi trường và khai thác tối đa lợi ích từ các nguồn năng lượng tái tạo.
Dự kiến tới năm 2030, công suất đặt toàn hệ thống dự kiến đạt khoảng 138.000 MW và tới năm 2045 khoảng 302.000 MW, trong đó ưu tiên phát triển nguồn năng lượng tái tạo phù hợp với tiềm năng từng vùng/miền bảo đảm an toàn hệ thống; nhiệt điện than có xu hướng giảm dần, tăng nhanh nhiệt điện khí trong cơ cấu phát triển nguồn điện. Mức phát thải khí CO2 sẽ giảm dần, đáp ứng các chỉ tiêu mà Việt Nam đã kết kết với quốc tế.
Quy hoạch điện VIII sẽ ưu tiên phát triển nguồn điện năng lượng tái tạo.
Nhu cầu điện vẫn tăng trưởng với tốc độ cao nhưng các nguồn năng lượng sơ cấp ngày càng khan hiếm, để đảm bảo cung ứng điện tới năm 2030, Việt Nam dự kiến phải nhập khẩu khoảng 1,2 triệu tấn LNG; 35,1 triệu tấn than vào năm 2025 và tăng dần tới 8,5 triệu tấn LNG và 45 triệu tấn than vào năm 2030.
Theo bộ Công Thương, nhu cầu vốn đầu tư hàng năm cho chương trình phát triển nguồn và lưới điện lên tới khoảng 13 tỷ USD/năm giai đoạn 2021-2030. Trong khi yêu cầu ngày càng cao về môi trường của các tổ chức quốc tế trong việc xem xét các khoản tín dụng hỗ trợ phát triển nguồn và lưới điện cũng đặt ra nhiều áp lực và thách thức cho việc thực hiện Quy hoạch điện VIII.
Đề cập đến giá điện truyền tải, bà Lê Thị Thu Hà - Phòng Phát triển Hệ thống điện, viện Năng lượng (bộ Công Thương) cho rằng: Giai đoạn 2020-2025 nhu cầu đầu tư rất lớn, các nguồn vay ODA chính đã dừng hẳn. Do vậy, cần xem xét giá truyền tải, điều chỉnh để các chỉ tiêu tài chính của các đơn vị truyền tải tốt hơn nữa, như xem xét tăng tỷ lệ lợi nhuận, tạo nguồn vốn tự có lớn hơn, đáp ứng nhu cầu đầu tư của hệ thống.
Quy hoạch điện VIII là quy hoạch hạ tầng phát triển điện lực quốc gia và có tính hệ thống rất cao, có sự gắn kết chặt chẽ với các quy hoạch ngành khác như ngành than, dầu khí, sử dụng tài nguyên, môi trường, năng lượng tái tạo, giao thông, kinh tế xã hội, không gian đô thị. Ông Trần Kỳ Phúc - Viện trưởng viện Năng lượng cho hay, sự bùng nổ đăng ký các dự án năng lượng tái tạo (điện gió, điện mặt trời) vừa qua đòi hỏi cách tiếp cận phù hợp hơn trong quy hoạch thiết kế, đầu tư và vận hành hệ thống lưới điện.
T.H