Đó là câu chuyện của cô giáo Nguyễn Vân Nhi (SN 1989), một giáo viên “cắm bản” đã gắn bó với trường phổ thông dân tộc bán trú THCS Tô Hiệu, xã Cư San, huyện M’Đrăk, tỉnh Đắk Lắk suốt gần 8 năm qua.
Gặp cô giáo 30 tuổi với vóc dáng khỏe khoắn, năng động, và nụ cười tươi luôn thường trực trên gương mặt, ít ai biết được những sóng gió từng vắt qua đôi vai giữa đại ngàn xanh thẳm.
“Tôi có vẻ là một giáo viên “ngược đời” so với tất cả đồng nghiệp, vì khi đủ năm công tác ở vùng sâu, lần lượt ai cũng làm đơn xin ra thị trấn để được gần nhà, duy nhất chỉ có tôi bao năm rồi vẫn muốn gắn bó nơi đây, không muốn rời xa.
Mỗi lần ngồi nhớ lại quãng thời gian đã qua, lòng tôi vẫn luôn dâng lên cảm xúc khó tả, bồi hồi xúc động xen lẫn niềm tự hào và hạnh phúc…”, cô giáo trẻ bồi hồi bắt đầu câu chuyện.
Vừa tốt nghiệp trường cao đẳng Văn hóa - Nghệ thuật & Du lịch Nha Trang, năm 2012, cô nữ sinh sư phạm Mỹ thuật hăng hái nộp hồ sơ về ngôi trường bản đơn sơ, tọa lạc trên xã khó khăn nhất của huyện khó khăn tại tỉnh nhà.
Một hình ảnh từ quá khứ như dội về trong đáy mắt Vân Nhi: "Tôi còn nhớ ngày đầu tiên đi làm là ngày 6/2/2012, tôi bỡ ngỡ chưa biết đường vào trường phải đi như thế nào nên được “gửi gắm” cho một thầy ở trường đón từ huyện vào.
7h sáng xuất phát, 10km đầu tiên đường khá ổn, nhưng tiếp đó là quãng đường lầy lội sau những ngày mưa dầm, ổ gà, ổ voi nhiều không đếm xuể, những vũng bùn sâu hoắm trơn trượt, những đoạn đá lởm chởm làm cho bánh xe liên tục chệch hướng. Cứ đi hoài, đi hoài, cảm giác xa lắm rồi nhưng vẫn chưa thấy trường đâu. Anh đồng nghiệp quay qua hỏi tôi: “Cô thấy xa không?”. Tôi bảo: “Xa!”. Anh cười: “Xa nhưng chưa được nửa đường đâu…”.
Loay hoay suốt 2 tiếng đồng hồ, chúng tôi chỉ đi được tầm 30km, vì đường trơn trượt không thể lái xe, chúng tôi phải dắt bộ hàng cây số, có đoạn cả hai phải hợp sức lôi xe lên khỏi vũng lầy mới đi tiếp được.
Quãng đường 50km cứ thế lùi về sau, khi đến trường cũng đã gần 11h trưa, nhìn tôi lúc ấy thật buồn cười, trên mũ bảo hiểm dính đầy bùn sình, toàn thân nhếch nhác như đi cày ruộng về, nhưng miệng cười rạng rỡ không một chút nản lòng. Hỏi ra mới biết, con đường đến trường tôi là như thế, mùa nắng thì lồi lõm, xóc tưng bừng, còn mùa mưa thì sình lầy nhiều không kể xiết”.
“Hình ảnh của anh đồng nghiệp hôm đó lặp lại với chính tôi chỉ sau một năm. Khi đã có kinh nghiệm, chính tôi lại vác xe vượt vũng lầy. Nhiều đoạn lầy đến mức, khi xe vào trong vũng rồi, không cần chống chân, thả xe ra mà xe không hề đổ. Có khi di chuyển chỉ khoảng 20m cũng mất đến nửa tiếng đồng hồ”, mái tóc chấm vai khẽ rung rinh vì điệu cười thích thú của cô khi nhớ lại.
Càng về sau, cô giáo trẻ càng được trải nghiệm nhiều cung đường đến trường còn “thú vị” hơn: đi băng qua rừng hoặc đi vòng qua huyện khác, vượt đò qua suối lớn mới đến được trường, có lúc hỏng xe dắt bộ trong rừng hay có những ngày thời tiết quá xấu phải đi 8 tiếng mới đến nơi.
Ngồi ôn lại những năm tháng ấy, Vân Nhi mỉm cười: “Tôi cũng thấy mình gan lì quá thể, vì dù hoàn cảnh thế nào tôi cũng vui vẻ vượt qua. Có lúc bị té xe, rơi xuống một mương nước, lăn mấy vòng, đến mức bể tan mũ bảo hiểm, đầu bị va sưng lên, tủi thân bật khóc, hoặc có lúc hoảng sợ rơi nước mắt trên đường vắng tối om, nhưng chưa một lần tôi nản lòng mà muốn bỏ về thị trấn”.
Sóng gió lớn nhất đến với cô giáo trẻ, có lẽ là vào một ngày buồn cuối năm 2015. Cô đã một lần đánh mất cơ hội làm mẹ, một đứa trẻ mà cô chưa từng được ôm ấp trong vòng tay, chưa từng được ngắm nhìn gương mặt bầu bĩnh trong giấc ngủ thiên thần đã ra đi.
Niềm vui ngắn chẳng tày gang, khi đang mang thai ở tuần thứ 5, cô có dấu hiệu dọa sảy. Mặc dù đã điều trị khắp nơi,Vân Nhi vẫn không giữ được con.
“Tôi ân hận và dằn vặt nhiều lắm… tự trách mình không biết đang có em bé, đi đường quá xóc… đã ảnh hưởng đến con”, những giọt nước mắt tiếc nuối lăn dài trên gương mặt người mẹ trẻ.
Đứa con đầu lòng chưa kịp cất tiếng khóc chào đời đã phải tạm biệt, cô giáo trẻ cảm thấy suy sụp, mất mát rất nhiều. Một người đồng nghiệp cũng từng xảy ra chuyện tương tự đã khuyên cô: “Con cái đến với mình là có một cái duyên. Nếu chưa đủ duyên thì con sẽ không ở lại. Bao giờ đủ duyên thì con sẽ đến…”.
“Vì thế, tôi cất nỗi đau vào lòng… chuẩn bị thật tốt để đón em bé tiếp theo. Một năm sau, tôi lại có tin vui. Hành trình giữ được em bé này cũng gian nan lắm! May mắn, tôi công tác ở một vùng sâu, xa, hẻo lánh, nhưng bù lại, tình cảm hết sức thân thương, từ ban giám hiệu cũng hết sức tạo điều kiện”, cô chia sẻ.
Đến nay, công chúa nhỏ của cô giáo Vân Nhi đã được 3 tuổi, nhưng vẫn phải chịu thiệt thòi, thường xuyên vắng bóng ba mẹ ở bên, bởi, cả ba và mẹ dạy học cùng trường, cách nhà hơn 50km. Đường về nhà quá hiểm trở, chỉ những lúc gia đình có việc, Vân Nhi mới tranh thủ sáng đi chiều về, còn những ngày bình thường, cô gửi con cho ông bà ngoại, vài ngày mới về một lần.
Với cô, không khó để điểm lại những cuộc băng rừng lạc lõng. Quãng đường xa hoang vắng, hiểm trở cũng là một trở ngại với một người phụ nữ. Những buổi họp xong lúc 21h, biết con ốm, trời tối đen như mực, cô cũng phải lên xe về. Đường đèo quanh co trong đêm tối luôn chực chờ nguy hiểm, giữa bóng tối thăm thẳm, một bên là đồi núi một bên là vực sâu, heo hút không một bóng người, cô chỉ biết “cắn răng” nén nỗi sợ hãi, để kịp về nhà trước khi bước sang ngày mới.
Một lần nữa tim người mẹ trẻ lại đau thắt, khi nghe bác sĩ thông báo, con gái có điểm bất thường ở não bộ nên gây ra các cơn co gồng mất ý thức. May mắn, qua một thời gian điều trị, bé gái đã giảm dần những lần co giật, nhưng vẫn ảnh hưởng đến sự phát triển trí não và vận động, nên cũng non nớt hơn các bạn cùng lứa tuổi.
Nhắc đến đây, cổ họng Vân Nhi như có gì đó đang nghẹn lại: “Là một người mẹ, khi nằm ngủ cạnh con, thấy con như vậy, có thể ôm con vào lòng, dỗ dành cho con… nhưng những hôm ở lại trường không về nhà, con ngủ với bà ngoại, nghe ngoại kể lại đêm qua con vừa lên cơn co giật… thấy chua xót… trong lòng tủi thân thay cho con vì khi đó tôi không có ở bên con. Tôi thực sự có lỗi với con… có lỗi với ba mẹ nhiều...”.
Cô giáo trẻ vẫn luôn xem việc mình gắn bó với ngôi trường đang giảng dạy như một cơ duyên, luôn cảm thấy hạnh phúc.
Đam mê “cắm bản” có lẽ được bắt nguồn từ hình ảnh đi dạy tăng cường của mẹ từ hồi cô còn học tiểu học. Mẹ cô là giáo viên, mỗi khi hè đến, lại tìm vào những điểm vùng sâu vùng xa, nơi học sinh không thể đến trường, mở lớp, dạy chương trình 36 buổi, những kiến thức “vỡ lòng”.
Mẹ cô thường đưa con gái theo trong mỗi chuyến đi. Lớp học thuở đó thường chỉ là những gian phòng nho nhỏ hay những chiếc nhà sàn đi mượn, đồ đạc rất đỗi đơn sơ. Thấy mẹ mang con chữ đến cho những em học sinh đồng bào, đến lớp với nụ cười trong trẻo, hồn nhiên, cô rất thích.
“Đó là một hình ảnh đẹp đến lạ thường, như in sâu vào tâm trí, khiến tôi mơ ước trở thành một giáo viên “cắm bản” từ lúc nào không hay”, tâm trạng cô giáo trẻ bỗng trở nên hào hứng khi nhắc đến ngày thơ bé.
Cô tâm niệm, chỉ khi được làm công việc mình yêu thích thì mới có cảm hứng, có năng lượng để tăng nhiệt huyết. Trước khi về với ngôi trường hiện tại, Vân Nhi từng mong muốn trở thành một giáo viên ngoài đảo xa: “Tôi thích lắm, chỉ cần đặt chân đến vùng khó khăn, vùng sâu vùng xa, biên giới hay hải đảo gì, tôi cũng thích!”.
Đôi khi, gia đình, bạn bè khuyên cô xin về gần nhà để có thời gian chăm sóc gia đình. Dường như, không ai hiểu được lý tưởng của cô, không ai hiểu được tình yêu lớn mà cô dành cho những vùng đất đó như đã “ngấm vào máu”.
“Chỉ có mẹ là người hiểu tôi nhất, luôn động viên con gái:“Hãy cố gắng làm những gì con cảm thấy yêu thích, con cảm thấy thoải mái, mãn nguyện. Bởi, làm ở đâu thì con cũng cống hiến cho ngành sư phạm. Mẹ sẽ ủng hộ, mẹ trợ giúp con trông cháu, nếu rảnh thì con về nhà với cháu…”, một nụ cười nhẹ nhàng nở trên gương mặt cô giáo trẻ khi nhắc đến lời động viên của mẹ.
Ngừng lại một chút, cô khẽ thở dài trước khi tiếp tục câu chuyện: “Trong khi mẹ ủng hộ nhất, thì ông xã lại là người phản đối nhiều nhất, việc tôi “bán mạng” trong vùng sâu.
Anh luôn luôn thúc giục tôi chuyển về gần nhà. Mỗi lần đến cuối năm học, có đợt viết đơn xin chuyển công tác là hai vợ chồng tôi lại đến hồi căng thẳng, thậm chí, “chiến tranh lạnh” với nhau. Mỗi lần tổng kết năm học, gia đình lại thêm một lần “sứt mẻ”. Hai vợ chồng lại cãi nhau, vì anh chưa hiểu được tất cả nguyện vọng của tôi”.
Chính vì khát vọng được dạy ở vùng sâu quá lớn, cô giáo Nguyễn Vân Nhi đã chọn hy sinh góc độ riêng tư gia đình.
Bởi vì trong lòng tôi vẫn muốn ở lại vùng trời này công tác. Ở những nơi như thế này, gặp gỡ học sinh như thế, người dân như thế, tôi mới thấy có nguồn năng lượng, có động lực để làm việc. Tôi yêu thích nơi tôi đang giảng dạy!”, ánh mắt lấp lánh như khẳng định một quyết định táo bạo đã được nuôi dưỡng từ rất lâu.
Sau gần 8 năm trong vai trò là giáo viên “cắm bản”, cô giáo Vân Nhi không chỉ “vững tay chèo” hơn qua từng chuyến đò tri thức, mà còn tích lũy được những kinh nghiệm sống, tôi luyện tính cách, suy nghĩ bản lĩnh, trưởng thành hơn, dày dạn hơn…
Suốt bao năm, cô giáo Vân Nhi như người mẹ hiền thứ hai, mang những phương pháp giáo dục nghệ thuật mới mẻ đến cho đàn con nhỏ.
Những lúc rảnh rỗi, cô thường xuống khu nhà bán trú của học sinh để hòa vào cuộc sống thường ngày, rảnh thì đi qua nhà dân, khám phá đặc trưng văn hóa. Cô luôn thầm lặng, giúp học sinh và người dân nghèo cải thiện đời sống khó khăn, góp phần mang ánh sáng đến ngay trên mảnh đất Cư San cằn cỗi.
Cảm mến sự chăm chỉ, ngoan hiền, lễ phép của cậu học trò cũ Ma Văn Chương với hoàn cảnh vô cùng khó khăn, cách trường mấy chục cây số, khi biết học sinh có nguyện vọng học lên cấp 3 ở trung tâm huyện, người mẹ hiền đã ngỏ ý giúp.
“Em Chương về ở cùng ba mẹ tôi, gọi ba mẹ tôi là ông bà, có việc gì nhẹ nhàng thì em đỡ đần giống như con cháu trong nhà. Gia đình tôi cố gắng tạo điều kiện cho mọi sinh hoạt của em. Mỗi tuần đi học, em còn mang theo một bịch gạo nho nhỏ ra “góp”. Dễ thương lắm!”, cô tiết lộ.
Một điều thú vị của cô giáo Nguyễn Vân Nhi, khi ngày Nhà giáo Việt Nam 20/11 cũng chính là ngày sinh nhật. Đối với nhiều thầy cô ở thị trấn, ngày 20/11 có thể nhận được những bó hoa tươi, những món quà đẹp, nhưng cô giáo “cắm bản” suốt nhiều năm chưa từng có cảm giác đó: “Học trò ở đây ngây thơ lắm, chưa biết 20/11 là ngày gì, chỉ biết là ngày học sinh được nghỉ học”.
Năm 2016, khi đã quen với việc chỉ có các thầy cô tự quan tâm nhau, một món quà đã xuất hiện thật bất ngờ khiến cô vô cùng hạnh phúc. “Đây là một món quà quý không phải ai cũng có được. Có thể mọi người được tặng quà về vật chất nhưng đây là món quà tinh thần lớn nhất, cũng là động lực của tôi trong ngành sư phạm. Khi cô học trò lớp 7 chạy đến tặng món quà này, tôi xúc động lắm luôn…”, bàn tay lướt nhanh bộ sưu tập trong điện thoại.
Dừng lại ở một bức ảnh, cô say sưa kể về món quà 20/11, cũng là quà sinh nhật đầu tiên, một bó hoa hồng bằng giấy: “Những bông hoa hồng được tô màu đỏ thắm, xếp từng cánh từ giấy vở ô ly, thân bằng những chiếc đũa được quấn giấy tô màu xanh. Bên ngoài là giấy gói hoa được “hô biến” từ bìa vở học sinh.
“Cô ơi, em tặng cô nè!”, tôi suýt bật khóc vì xúc động trước món quà thủ công mà em đã tỉ mỉ tự tay làm tặng. Nếu là một bông hoa tươi đi mua về, có thể tôi sẽ không xúc động nhiều đến vậy…”.
Nguyện vọng lớn nhất của cô giáo Nhi là được công tác lâu dài ở vùng sâu vùng xa, góp một phần sức lực của mình cho sự nghiệp giáo dục: “Tôi cũng mong muốn có thật nhiều giáo viên giàu lòng nhiệt huyết chọn đến đây công tác để giúp cho các em học sinh được bù đắp những thiếu thốn trăm bề”.
Chia sẻ về một sở thích của bản thân, Vân Nhi bật mí: “Tôi thích trồng cây mỗi ngày. Tôi say mê sen đá, xương rồng đến mức có thể đắm chìm ngồi thiết kế tiểu cảnh thâu đêm suốt sáng, không biết chán”.
Có lẽ, với chuyên ngành Mỹ thuật, cô giáo trẻ có thể phối rất nhiều tiểu cảnh độc đáo. Và có lẽ, cô yêu sen đá, xương rồng bởi chính cá tính lạc quan, bản lĩnh và tràn đầy năng lượng tích cực của cô cũng như những loài cây này vậy.