Pháp quyền (trong tiếng Anh là Rule of law; trong tiếng Đức là Rechtstaut và trong tiếng Pháp là Etat de Droit) là một khái niệm có nội hàm “mở”. Tùy thuộc vào hoàn cảnh chính trị, lịch sử, văn hóa pháp lý của mỗi quốc gia mà khái niệm pháp quyền có nội hàm rộng, hẹp khác nhau. Theo từ điển Oxford, pháp quyền được hiểu là sự hạn chế việc sử dụng quyền lực tùy tiện bằng cách ràng buộc quyền lực vào những đạo luật được xây dựng rõ ràng, chặt chẽ(1). Theo Từ điển Black’s law, pháp quyền là trạng thái tuyệt đối rằng luật pháp đứng trên mọi công dân bất chấp sự khác biệt về quyền lực giữa các công dân(2). Năm 2004, Tổng thư ký Liên hợp quốc Kofi Annan đã từng nêu những nội hàm chính của Nhà nước pháp quyền (NNPQ) và cho rằng NNPQ là quan điểm cốt lõi trong sứ mệnh của Liên hợp quốc. Đó là quan điểm về một cách tổ chức quản trị, theo đó mọi người, mọi định chế, tổ chức - công cũng như tư, trong đó có Nhà nước - phải phục tùng pháp luật. Đến lượt nó, pháp luật cần được công bố công khai, được thực thi một cách bình đẳng đối với mọi người, được áp dụng bởi Toà án độc lập, pháp luật đó phải phù hợp với các chuẩn mực quốc tế và các quy chuẩn quyền con người.(3)
Tuy có sự khác nhau về cách diễn đạt nhưng các khái niệm trên đều cùng chung một nhận thức cốt lõi về pháp quyền, đó là: i) Pháp luật có tính tối thượng mà mọi chủ thể bao gồm cả người dân và nhà nước đều bị điều chỉnh bởi pháp luật; là công cụ hữu hiệu thực hiện kiểm soát quyền lực nhà nước; ii) Pháp luật phải bảo vệ công lý, công bằng và lẽ phải, bảo vệ quyền con người, quyền công dân, iii) Pháp luật được hình thành một cách dân chủ, chứa đựng các giá trị của quốc gia, dân tộc và quốc tế.
Dù có tên gọi, cách biểu đạt khác nhau trong các Nhà nước trên thế giới, song về phương diện lý luận, NNPQ là một hình thức tổ chức quyền lực nhà nước, trong đó toàn bộ tổ chức và hoạt động của nhà nước đều được quy định bởi pháp luật và theo đúng các quy định của luật pháp. Quá trình xây dựng NNPQ thưc chất là quá trình chuyển quyền lực thuộc bộ máy nhà nước sang quyền lực thuộc về pháp luật. Thông qua quá trình chuyển giao này, hệ thống pháp luât xác lập quyền lực của bộ máy cai trị và nghĩa vụ của người dân sang xác lập quyền của công dân và quy định trách nhiệm, nghĩa vụ của bộ máy nhà nước đối với Nhân dân - chủ thể cao nhất của quyền lực nhà nước.
Nghiên cứu tư tưởng và thực tiễn các mô hình NNPQ trên thế giới, có thể khái quát những giá trị cốt lõi của NNPQ như sau:
Một là, NNPQ là nhà nước thực hiện chủ quyền của nhân dân, nhân dân là chủ thể tối cao của quyền lực nhà nước.
Hai là, NNPQ là nhà nước bảo đảm tính tối thượng của Hiến pháp và pháp luật trong đời sống nhà nước và xã hội.
Ba là, NNPQ là nhà nước công nhận, tôn trọng, bảo vệ và bảo đảm quyền con người, quyền tự do, dân chủ của công dân.
Bốn là, trong NNPQ quyền lực nhà nước phải được tổ chức thích hợp và có cơ chế kiểm soát hiệu quả.
Năm là, NNPQ có nghĩa vụ tôn trọng và thực hiện các điều ước quốc tế.
Ở Việt Nam, tinh thần pháp quyền được thể hiện rất sớm từ Đại hội V, VI và trong Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên CNXH (năm1991). Đảng ta xác định xây dựng nhà nước chuyên chính vô sản: “Là tổ chức thể hiện và thực hiện ý chí, quyền lực của nhân dân, thay mặt nhân dân, nhà nước ta phải có đủ quyền lực và đủ khả năng định ra luật pháp và tổ chức, quản lý mọi mặt của đời sống xã hội bằng pháp luật”(4). Hội nghị đại biểu toàn quốc giữa nhiệm kỳ khóa VII của Đảng (1-1994) đã chính thức đề cập việc xây dựng “Nhà nước pháp quyền thực sự của dân, do dân và vì dân(5)”. Đến năm 2001, khi sửa đổi, bổ sung Hiến pháp năm 1992, lần đầu tiên thuật ngữ pháp quyền XHCN của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân được hiến định, tạo cơ sở pháp lý quan trọng để hiện thực hóa việc xây dựng NNPQ. Từ đó đến nay, văn kiện Đại hội Đảng qua các nhiệm kỳ đều nhất quán chủ trương xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN ở nước ta. Đây vừa là mục tiêu vừa là tiến trình xây dựng nhà nước bảo đảm chủ quyền nhân dân, nhất là trong bối cảnh các giá trị dân chủ lớn mạnh và hội nhập quốc tế là xu hướng toàn cầu không loại trừ một quốc gia tiến bộ nào.
Thứ nhất, để quản lý đời sống xã hội, nhà nước nào cũng cần ban hành pháp luật với tính chất là công cụ cai trị, quản lý hữu hiệu nhất. Song trong nhà nước pháp quyền XHCN, pháp luật không phải của nhà nước – của giai cấp cầm quyền, mà pháp luật thuộc về số số đông, của Nhân dân. Thông qua quy trình làm luật dân chủ, khoa học đã thu hút, huy động được các tầng lớp nhận dân, các nhà khoa học tham gia đóng góp ý kiến cũng như thực hiện phản biện xã hội. Nhờ vậy pháp luật trong NNPQ trở thành công cụ hữu hiệu quản lý xã hội. Đây là điều mà pháp luật – là ý chí của giai cấp thống trị (thuộc về số ít) rất khó đạt đến.
Thứ hai, trong nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam, pháp luật có vị trí tối thượng đối với hoạt động quản lý nhà nước và xã hội. Đặc tính này xuất phát từ vai trò của pháp luật khi thiết lập hành lang pháp lý, tạo ra trật tự công bằng, kỷ cương, thúc đẩy phát triển kinh tế xã hội, thực thi dân chủ, kiểm soát quyền lực, ngăn ngừa và xử lý lợi ích nhóm. Bằng hiệu lực của pháp luật, các quan hệ xã hội được điều chỉnh với các quy tắc, quy trình, thủ tục đảm bảo tính thống nhất, minh bạch và hiệu lực, hiệu quả. Nhờ đó, các quan hệ xã hội được bảo vệ, tránh sự xâm phạm của bất kỳ chủ thể nào trong xã hội.
Thứ ba, xuất phát từ vai trò của đạo đức cũng như các những giá trị văn hóa truyền thống tốt đẹp của dân tộc, nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam có sự linh hoạt, uyển chuyển khi kết hợp giữa hiệu lực tối thượng của pháp luật với vai trò tự điều chỉnh của quy phạm xã hội. Một mặt phát huy vai trò của các quy phạm xã hội (phong tục, tập quán, tín điều tôn giáo…) trong điều chỉnh các quan hệ xã hội ở cộng đồng cơ sở, một mặt chuyển hóa các giá trị tích cực đó vào nội dung quy định pháp luật tương thích … Nhờ đó pháp luật trong nhà nước pháp quyền XHCN vừa tiếp thu tinh hoa lập pháp nhân loại vừa thấm đẫm các giá trị văn hóa dân tộc. Điều này đã góp phần vào hiệu quả quản lý nhà nước bằng sức mạnh cưỡng chế cũng như sự tự giác tuân thủ pháp luật của nhân dân với niềm tin nội tâm vào đạo lý, công bằng và lẽ phải.
Ở phương diện lý luận, quyền lực nhà nước có nguồn gốc từ xã hội và thuộc về tất cả mọi người. Để tổ chức quản lý, quyền lực xã hội đó được giao/ủy quyền cho một nhóm người đại diện thay mặt nhân dân thực hiện. Trên thực tế, việc tiếp nhận quyền lực nhân dân (thông qua cơ chế dân chủ đại diện) và sử dụng quyền lực công luôn có xu hướng tha hóa bởi yếu tố lợi ích, chính vì vậy thiết lập một cơ chế phân công, phối hợp và kiểm soát quyền lực là vấn đề phải đặt ra để bảo vệ chủ quyền nhân dân.
Với nguyên tắc quyền lực nhà nước phải được kiểm soát, nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam đã thiết lập cơ chế quyền lực nhà nước là thống nhất thuộc về nhân dân, “có sự phân công, phối hợp, kiểm soát giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp” (6). Sự kiểm soát được thực hiện thông qua cơ chế nội bộ, giữa các cơ quan nhà nước và không thể thiếu cơ chế kiểm soát bên ngoài của các thiết chế chính trị-xã hội, xã hội - nghề nghiệp đặc biệt là sự kiểm soát từ chủ thể nhân dân. Dân trí lớn mạnh là điều kiện giúp nhân dân thực thi quyền làm chủ bằng trực tiếp tham gia, qua kiểm tra, giám sát tất các khâu: từ xây dựng pháp luật, hoạch định chính sách, tổ chức thực hiện đến phát hiện và xử lý vi phạm pháp luật.
Chính vì vậy, để nhân dân có đủ quyền năng, nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam đã đảm bảo các điều kiện pháp lý, chính trị, kinh tế để nhân dân thực thi quyền làm chủ. Bộ máy nhà nước và đội ngũ công chức là chủ thể thay mặt nhân dân quản lý, điều hành và cung cấp dịch vụ công hướng đến bảo đảm quyền con người, quyền công dân, từ đó góp phần nâng cao và bảo vệ quyền làm chủ nhà nước và xã hội của nhân dân.
Trong bối cảnh hội nhập, hợp tác là xu thế tất yếu, các nhà nước tiến bộ trên thế giới hiện nay đều liên kết và phụ thuộc ít nhiều vào nhau trong giải quyết các xung đột lợi ích, trong giải quyết các vấn đề toàn cầu như bảo vệ môi trường, phòng chống dịch bệnh, giữ gìn hòa bình... Chính vì vậy, các quốc gia khi lựa chọn và tuyên bố pháp quyền phải có tiếng nói và hành động thiết thực góp phần xây dựng, định hình các thể chế đa phương và trật tự chính trị - kinh tế quốc tế.
Hơn 30 năm đổi mới, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản, nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam luôn nhất quán quan điểm và thực tiễn hành động về trách nhiệm quốc gia đối với quốc tế. Qua mỗi giai đoạn, chúng ta đều có những bước phát triển mới hướng đến mục tiêu “giữ vững môi trường hòa bình ổn định; không ngừng nâng cao vị thế, uy tín quốc tế của Việt Nam”(7). Việt Nam là thành viên tích cực, đảm nhiệm nhiều trọng trách quan trọng của Liên hợp quốc, các tổ chức chính trị, kinh tế, văn hóa quốc tế và khu vực; là thành viên tận tâm thực hiện các điều ước quốc tế đã ký kết trong các lĩnh vực dân sự - chính trị, kinh tế - văn hóa, xã hội. Có thể nói, việc thực hiện đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, tôn trọng chủ quyền và các nguyên tắc quốc tế đã thể hiện rõ lập tường và trách nhiệm của Việt Nam trong phát triển kinh tế, giữ vững trật tự an ninh, hòa bình khu vực và thế giới.
Phát huy dân chủ, bảo đảm quyền làm chủ của nhân dân là định hướng quan trọng, đồng thời là mục tiêu xây dựng, hoàn thiện và phát huy vai trò của nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở nước ta hiện nay. Thực hiện được những yêu cầu dân chủ sẽ tạo ra hiệu lực, hiệu quả hoạt động của bộ máy nhà nước, từ đó “củng cố, nâng cao niềm tin của nhân dân, tăng cường đồng thuận xã hội”(8).
Tiếp tục hoàn thiện tổ chức bộ máy nhà nước theo hướng tinh gọn, chuyên nghiệp, hiện đại, bảo đảm quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân. Có cơ chế phân công, phối hợp, kiểm soát quyền lực nhà nước khoa học. Phòng ngừa và xử lý nghiêm minh các vi phạm pháp luật, đặc biệt là các hành vi tham nhũng, tiêu cực, lợi ích nhóm.
Bên cạnh đó, cần đổi mới phương thức tuyên truyền, phổ biến giáo dục pháp luật, nâng cao dân trí cho nhân dân. Bảo đảm các điều kiện chính trị, pháp lý, kinh tế - xã hội để nhân dân thực hành dân chủ. Tăng cường vai trò của nhân dân trong kiểm soát tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước.
Đẩy mạnh hoạt động đối thoại trong và ngoài nước để nhân dân và bạn bè quốc tế hiểu đúng về bản chất nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam. Đồng thời kiên quyết đấu tranh với các tổ chức, lực lượng phản tiến bộ, xuyên tạc, vu cáo về các thành tựu nhân quyền, thành tựu phát triển kinh tế xã hội, an ninh quốc phòng mà nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam đã nỗ lực thực hiện trong thời kỳ đổi mới. Tôn trọng và tuân thủ các điều ước quốc tế; cùng nhân dân tiến bộ yêu chuộng hòa bình trên thế giới đấu tranh góp phần giữ vững an ninh chủ quyền, an ninh con người, tiến hành xóa đói giảm nghèo, khắc phục sự cố và bảo vệ môi trường toàn cầu.
Tóm lại: Để phát huy vai trò của Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam đòi hỏi phải thực hiện đồng bộ các nhiệm vụ: đổi mới tổ chức bộ máy nhà nước, phát huy quyền làm chủ nhân dân và nỗ lực, tận tâm thực hiện các cam kết quốc tế. Chính vì vậy, ngoài việc xây dựng chiến lược, xác định chủ trương, phải có kế hoạch và bước đi thích hợp cho từng giai đoạn, phù hợp với điều kiện của đất nước. Đồng thời thống nhất nhận thức và hành động của cả hệ thống chính trị, đó chính là cơ sở để Việt Nam thực hiện tốt chủ trương xây dựng, hoàn thiện và phát huy vai trò của nhà nước pháp quyền XHCN trong đời sống chính trị, xã hội hiện nay.
(1) http://en.oxfordictionaries.com/definition/rulerylaw
(2) Black’s law dictionary, 10th, Edition by Bryan A.garner, p692
(3) The Rule of Law and Transitional Justice in Conflict and Post-conflict Societies UN Security Counsil S/2004/ 616, 23 August 2004, par III 6.
(4) Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc thời kỳ đổi mới (Khóa VI, VII, VIII, IX, X), Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2010, Phần I, tr. 422
(5) Hội đồng Lý luận Trung ương: 30 năm thực hiện Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2020
(6) Điều 2, Hiến pháp 2013
(7) Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nxb CTQG Sự Thật, H.2021, tr.117-118
(8) Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, tập 1, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2021, tr. 38.
NGUOIDUATIN.VN |