Tìm đến căn nhà nhỏ của nghệ sĩ tuồng Nguyễn Kim Kê (75 tuổi) trên con phố Đào Duy Từ (Hà Nội), chúng tôi khá bất ngờ khi ở tuổi này, nghệ sĩ vẫn giữ được sự phong độ cùng giọng nói hào sảng. Ông vui vẻ dẫn chúng tôi qua những bậc cầu thang nhỏ lên tầng 2, nơi ông lưu giữ những gương mặt tuồng cổ do chính mình tạo ra.
Ông Kê nhón chân nhấc những chiếc mặt tuồng cổ được vẽ trên mặt nạ giấy bồi xuống cho chúng tôi xem. Vừa tháo lớp túi bóng kính bên ngoài che lại cho đỡ bụi, ông vừa kể về cơ duyên đến với loại hình nghệ thuật tuồng.
“Tôi được sinh ra trong gia đình có truyền thống hát tuồng. Nhà tôi lại ở cạnh ngay rạp hát Lạc Việt vốn là nơi biểu diễn tuồng, chèo đầu tiên của Việt Nam được xây từ thời Pháp (bị cháy vào năm 1981, hiện được xây mới thành trung tâm Giao lưu Văn hóa phố cổ - PV) nên tối nào tôi cũng theo chân bố mẹ và ông sang rạp đắm mình trong những điệu ai, điệu xuân (những lối hát trong nghệ thuật tuồng cổ - PV) trên sân khấu”, ông Kê nhớ lại.
Nghệ sĩ Nguyễn Kim Kê cầm chiếc mặt nạ tuồng do chính tay ông vẽ.
Theo lời kể của ông, năm 12 tuổi, ông được bố cho diễn vai quân bắt ngựa trong vở Hạng Võ bại ô gia. Tuy là lần đầu tiên bước lên sân khấu nhưng diễn xuất của ông đã khiến mọi người kinh ngạc vì không ngờ một cậu bé 12 tuổi lại có thể diễn tốt đến vậy.
“Sau vai diễn đó, tối nào tôi cũng ngồi sau cánh gà xem các bậc tiền bối diễn. Đó là cái lợi mà tôi có được, vai nào có điểm gì hay là tôi học tập, cái nào dở thì loại. Ngày đó, không có trường lớp chuyên nghiệp như bây giờ. Việc học tuồng chủ yếu là cha truyền, con nối. Ông cụ nhà tôi là người truyền dạy và ảnh hưởng đến tôi nhiều nhất. Những năm tháng ngồi sau cánh gà, tôi đã đúc kết được những cái tinh túy của các bậc tiền bối trong nghề. Họ dạy tôi từ cách tự vẽ mặt theo từng lớp nhân vật, cách hát nói, hát bội thế nào cho biểu cảm. Thậm chí, tôi còn phải học võ, học cho người được dẻo dai để có thể phù hợp với các vai diễn đặc thù”, nghệ sĩ Kê kể lại.
Đến năm 20 tuổi, chàng trai trẻ Nguyễn Kim Kê xếp niềm đam mê của mình sang một bên để nghe theo tiếng gọi của Tổ quốc, lên đường vào Nam chiến đấu. Sau 5 năm chiến đấu ở chiến trường Tây Ninh, người thanh niên ấy bị mất tới 50% sức khỏe và trở về hậu phương để chữa trị.
Rạp Lạc Việt - nơi nghệ sĩ gắn bó một thời nay không còn.
Thế nhưng, khi trở về nhà, nhà hát tuồng Lạc Việt không còn nữa mà sáp nhập vào nhà hát Tuồng Việt Nam (khu Văn hóa Nghệ thuật Mai Dịch, Cầu Giấy, Hà Nội) nên ông chuyển sang làm cơ khí. Đến năm 1972, ông làm chỉ huy tự vệ bắn máy bay khi Mỹ bắn phá Hà Nội. Năm 1975, khi đang diễn nghiệp dư cho đỡ nhớ nghề, Giám đốc nhà hát tuồng khi đó ngồi xem và thấy được tài năng liền đánh công văn “xin” đích danh ông vào Nhà hát tuồng Việt Nam. Kim Kê một lần nữa được trở lại niềm đam mê ca kịch từ thuở nhỏ. Đó cũng là thời kì hoàng kim trong sự nghiệp của ông với những đêm diễn đông kín người xem.
Ông Kê chia sẻ: "Ngày đó không có nhiều nghệ thuật giải trí như bây giờ nên tuồng được bà con yêu thích. Mỗi khi có một vở diễn, rạp hát lại đông nghịt người xem. Họ đến xem vì thích, vì đam mê. Diễn viên tuồng khi đó được mến mộ chẳng khác gì những ca sĩ, nghệ sĩ nổi tiếng bây giờ. Có những người còn mua vé cả tháng, không cần biết đoàn diễn vở gì".
Hỏi ông về cái khó của bộ môn nghệ thuật tuồng, nghệ sĩ Nguyễn Kim Kê cho hay: “Để diễn được cần phải có quá trình luyện tập, học hỏi vất vả và đặc biệt phải có niềm đam mê với nó. Trong các bộ môn ca kịch, tuồng là bộ môn khó nhất, người diễn tuồng có thể đi đóng cải lương, chèo nhưng ngược lại thì không được. Hay đặc biệt hơn, đối với tuồng, người ta chỉ có thể nói xem tuồng chứ không thể là nghe tuồng, bởi sự phức tạp trong cảm nhận của bộ môn này rất khắt khe.
Đến nay, bộ mặt nạ tuồng của người nghệ sĩ già có gần 100 nhân vật.
Vũ đạo tuồng là lồng ghép cả võ thuật dân tộc, nên người nghệ sĩ phải biết sử dụng cả binh khí. Hay như yếu tố kịch câm, khi đưa vào vở tuồng bắt buộc diễn viên phải kết hợp các động tác diễn tả tốt để khán giả nhìn là hiểu.
Ngay trong động tác bắt ngựa, dù chỉ là một kép phụ nhưng người diễn giỏi là người biết thể hiện đúng hoàn cảnh. Ngựa có nhiều loại ngựa, loại ngựa hung dữ như Ô Truy của Hạng Võ thì phải diễn tả kiểu khác, ngựa của Khổng Minh lại diễn tả một kiểu khác. Cũng chỉ bằng cây gậy ấy, người diễn phải làm thế nào để người xem thấy được cái thần, cái tính cách của con ngựa".
Dù ông đã về hưu từ năm 40 tuổi do sức khỏe nhưng đến nay nghệ sĩ Kim Kê vẫn được nhà hát Tuồng Việt Nam và trường đại học Sân khấu Điện ảnh mời giảng dạy nghệ thuật hóa trang, vũ đạo lẫn hướng dẫn diễn vai mẫu.
Trong quãng thời gian gắn bó với nghề, ông nhận thấy một điều, ngày nay, các diễn viên thiếu kỹ năng hóa trang, những nét biểu cảm được vẽ trên mặt nghệ sĩ đã không còn đúng thần thái như với tuồng cổ ngày xưa. Hóa trang trong tuồng là một yếu tố quan trọng, người xem có kinh nghiệm chỉ cần nhìn cách vẽ mặt, biểu cảm, ánh mắt là biết nhân vật ấy tốt hay xấu. Ông lo sợ, cứ đà này chỉ vài chục năm nữa khi những nghệ sĩ gạo cội mất đi, lớp trẻ sẽ không còn biết cách hóa trang biểu diễn. Vậy là ông mày mò vẽ lên mặt nạ bằng giấy bồi để lưu giữ và truyền lại cho các thế hệ trẻ.
“Đến nay, tôi vẽ được gần 100 gương mặt trên mặt nạ giấy bồi. Trong tuồng, có hàng trăm nhân vật nhưng chia làm 4 nhóm chính: Trung thần, gian thần, nghịch thần và phản thần. Cách phân biệt các nhân vật này dựa vào gam màu chủ đạo: Trắng, đỏ và đen”, nghệ sĩ Kim Kê chia sẻ.
“Mặt này có tên là Hạng Võ trong Hán Sở tranh hùng - một võ tướng giỏi, hữu dũng vô mưu, một vai phản thần sẵn sàng ra tay cướp ngôi vua. Với vai này, cách vẽ gương mặt đường nét phải dữ tợn. Còn với vai trung thần, gam màu đỏ sẽ là chủ yếu với những điểm nhấn như râu hùm, hàm én, mày ngài. Còn vẻ mặt của gian thần thì chủ yếu gam màu trắng, mắt ti hí kéo dài thể hiện rõ tính cách ti tiện, hèn mọn. Nhân vật nịnh thần ngoài gam trắng còn phải được đặc tả bởi gương mặt gầy gò, tính cách “gió chiều nào theo chiều đó”, ông nói.
Để làm ra một chiếc mặt nạ trên giấy bồi, nghệ sĩ Kim Kê phải mất cả tuần vì việc vẽ mặt đòi hỏi sự tỉ mỉ và chỉ cần một sai sót nhỏ sẽ phá hỏng gương mặt và vì vẽ bằng sơn nên sau mỗi lớp vẽ cần phải chờ cho sơn khô rồi mới thực hiện công đoạn tiếp theo. Thế nhưng, những điều đó không làm khó người nghệ sĩ già, bởi với việc lưu giữ “cái hồn” nghệ thuật hóa trang tuồng cổ là niềm hạnh phúc ở cái tuổi gần đất xa trời.
“Nghệ thuật diễn tuồng xuất phát từ cung đình, phục vụ vua quan vào dịp lễ hội. Sau này, tuồng có sức ảnh hưởng lớn trong dân gian, từ chỗ phục vụ tầng lớp vua quan, tuồng dần đứng về phía người dân, lên án vua quan hối lộ, hà hiếp trung thần, giết hại dân lành. Và để khéo léo “qua mặt” tầng lớp cầm quyền, nghệ sĩ tuồng đã mượn các điển tích cũ để diễn, mượn chuyện nước khác thực chất muốn bày tỏ tâm tư, lột tả bộ mặt xã hội phong kiến”, ông nói.
P.L