Những ngày tháng Tư lịch sử, chúng tôi tìm đến nhà ông Phan Minh Lý, SN 1941, trú tại xóm Khoa Đà, xã Hưng Tây, huyện Hưng Nguyên, tỉnh Nghệ An. Thời điểm này, ông Lý cùng nhiều cựu chiến binh xuống Trung tâm điều dưỡng Người có công với cách mạng tỉnh Nghệ An để an dưỡng. Vượt quãng đường xa, chúng tôi tìm đến Trung tâm để gặp ông. Mặc dù, đã bước sang tuổi 82, tóc bạc trắng nhưng khi nhắc về thời gian được cống hiến cho đất nước, ký ức về những ngày tháng khổ cực mà hào hùng hiện hữu trong ông.
Theo đó, năm 1964, khi vừa lấy vợ được 1 năm, theo tiếng gọi thiêng liêng của Tổ quốc, ông Lý lên đường nhập ngũ. Khi chuẩn bị cho đợt 3, cuộc Tổng tiến công nổi dậy Tết Mậu Thân 1968, người lính này được phân công điều động cho Tiểu đoàn 5, Trung đoàn 2, Sư đoàn 324, Quân Khu 4.
Ông Hoàng Minh Lý kể về những ngày tháng khốc liệt và hào hùng
Khi hành quân xuống đồng bằng, đơn vị ông Lý bị địch phục kích ở địa phận xã Hải Vĩnh, huyện Hải Lăng, tỉnh Quảng Trị. Người lính này bị thương nặng bỏng sau phần mông và chân. Sau đó, ông được đưa về Trạm phẫu để diều trị. Tuy nhiên, trong quá trình điều trị ở đây, Trạm phẫu bị quân địch càn quét. Ông Lý và nhiều thương binh khác bị quân địch đưa về Phòng Nhì Quân đoàn 1 để khai thác thông tin.
“Một tháng ở Phòng Nhì là một cuộc chiến khốc liệt. Những người được đưa đến đây, dù là tù binh hay tù chính trị đều bị tra tấn bằng những cách thức ác độc nhất. Riêng tôi bị đổ nước xà phòng đặc vào miệng, bị bắt nằm dưới đèn điện 1.000W, tưởng chừng như đã chết", ông Lý chia sẻ.
Sau 1 tháng không khai thác được gì, bọn địch đưa ông Lý cùng nhiều người khác xuống tàu, đày ra đảo Phú Quốc. Những ngày tháng bị đày đoạ ở đây khiến người ông Lý gầy rộc. Có người bị nhổ răng, đóng đinh vào đầu ngón tay, chân… Tuy bị hành hạ tàn bạo ở “địa ngục trần gian” những dưới sự chỉ đạo của chi bộ, ông Lý cùng các bạn tù của mình vẫn tích cực các phong trào đòi dân sinh, chống đàn áp, các hình thức tra tấn hà khắc, cải thiện đời sống…
Ông Hoàng Minh Lý nhận được nhiều huân huy chương, kỷ niệm chương
“Ở trong tù phong trào mạnh nhất là đòi dân sinh, lương thực của tù nhân bị bớt xét phần lớn. Ngày Tết ở trong tù, mỗi tù nhân được phát một con cá nục thối, đã có dòi để ăn với cơm. Nhiều lúc chúng tôi phải tuyệt thực đến 9 ngày…Vì lo sợ dư luận, bọn cai ngục phải cho người nấu cháo loãng, cạy miệng đổ cho tù nhân cũng như đáp ứng một số yêu cầu về cải thiện điều kiện ăn, ở, sinh hoạt...”, ông Lý nhớ lại.
Mặc dù, bị tra tấn tàn ác như vậy nhưng ông Lý và các tù nhân khác luôn tin vào đường lối của Đảng, tin một ngày cách mạng sẽ thắng lợi. Vì vậy những người lính này chưa bao giờ ngừng nghỉ đấu tranh, tin một ngày đất nước sẽ hoà bình, thống nhất.
“Và thông tin về Hiệp định Paris về chấm dứt lọt vào nhà tù thực sự là một sự kiện chấn động. Thời khắc đó, anh em tôi như được sinh ra một lần nữa. Chúng tôi reo hò, có người cười, người khóc hô lớn “Sống rồi…”. Hiệp định Paris được ký bọn cai ngục cũng nới lỏng với tù nhân hơn”, ông Lý nhớ lại khoảnh khắc đó.
Sáng 19/3/1973, ông Lý cùng đồng đội được lên xe đưa ra sân bay, rồi chở thẳng ra Phú Bài (Huế). Từ Phú Bài, các tù binh được ô tô chở ra phía Nam bờ sông Thạch Hãn (Quảng Trị). Nhìn thấy lá cờ Tổ Quốc tung bay ở phía bờ Bắc ông Lý và đồng đội mừng vỡ, nước mắt chực trào.
Bà Lương kể về ngày gia đình nhận được giấy báo tử của chồng.
“Được dẫn xuống thuyền, chúng tôi cởi bỏ bộ đồ áo mà địch phát chỉ còn chiếc quần đùi, quên hết đau đớn, lao xuống sống bơi nhanh về phía bên kia. Bơi được đến giữa sông, bộ đội giải phóng chèo thuyền ra đến đón đưa lên bờ. Sau 4 năm 8 tháng sống trong cảnh ngục tù tôi đã trở về trong vòng tay đồng đội, đồng bào. Và lúc này tôi vững tin rằng ngày chiến thắng đã đến gần rồi”, ông Lý rưng rưng kể.
Từ ngục tù trở về ông Lý cũng như nhiều đồng chí khác đều mong muốn được quay lại chiến trường để chiến đấu. Tuy nhiên, do bị thương, bị giam cầm thời gian dài, sức khoẻ đã yếu, ông không được tái ngũ. Sau đó, ông Lý được đưa ra Quảng Ninh để an dưỡng và trở về với gia đình.
Theo bà Ngô Thị Lương, 81 tuổi, vợ ông Lý, năm 1969, gia đình nhận được giấy báo tử của ông. Nghĩ đến đứa con thứ 2 chưa được nhìn thấy mặt bố mà như chết điếng. Tuy nhiên, bà không cho phép mình yếu mềm, người phụ nữ này năng nổ tham gia sản xuất, hoạt động đoàn thể để quên đi nỗi đau đó.
Những huân, huy chương của ông Lý được bà Lương cất giữ cẩn thận.
Đến một ngày giữa năm 1973, nhận được bức thư từ Quảng Ninh về bà không tin đó là thư của chồng. “Thời điểm đó, ông gửi về cho tôi một lá thư và một bức ảnh kèm theo. Ông kể sơ bộ về quá trình bị bắt giữ, tù đày và cho đến ngày trao trả. Ông cho biết đang đi an dưỡng ở Quảng Ninh. Nhìn bức ảnh tôi khẳng định đây không phải là chồng bởi người đàn ông trong ảnh gầy gò, hốc hác, tóc dựng đứng… Cho đến một ngày tháng 1/1974, khi đang ở nhà, tôi thấy chồng vác balo vào sân. Lúc này, tôi mới dám tin chồng mình còn sống”, bà Lương rưng rưng nước mắt nói.
“Ngày 30/4/1975, khi nhận được thông tin Dinh Độc Lập đã hoàn toàn bị khống chế, cờ giải phóng đã tung bay trên nóc cơ quan đầu não của ngụy quyền Sài Gòn, tôi vui mừng vô kể. Bởi chiến dịch Hồ Chí Minh đã toàn thắng, kết thúc những năm tháng kháng chiến vẻ vang và oanh liệt của dân tộc”, ông Lý kể.
Hội chiến sỹ cách mạng bị địch bắt tù đày tỉnh Nghệ An, Hà Tĩnh dự lễ tưởng niệm Liệt sỹ Trại giam tù binh Cộng sản Việt Nam - Phú Quốc nhân kỷ niêm 70 năm ngày TBLS. Ảnh H.L.
Có lẽ những năm tháng ở chiến trường là giai đoạn đẹp nhất và không thể quên đối với những người lính. Trở về từ chiến trường phát huy tinh thần thép của người lính cụ Hồ, ông Lý tích cực trong phát triển kinh tế gia đình, tích cực tham gia công tác xã hội ở địa phương. Nhiều năm liền ông là Chủ tịch Hội Cựu chiến binh huyện Hưng Nguyên. Tuy nhiên, do tuổi cao sức yếu, năm 2022 ông đã xin phép từ chối giữ chức vụ này và cùng vợ sống vui vầy bên con cháu.
H.H
NGUOIDUATIN. |