PV: Tôi rất thích đọc những chia sẻ trên mạng xã hội của GS, nó không chỉ là những câu chuyện truyền cảm hứng mà còn mang lại rất nhiều năng lượng tích cực. Nhưng điều khiến tôi ngạc nhiên, cảm phục hơn nữa là ở hành trình ông đã đi từ một cậu bé nghèo khó, trở thành một nhà khoa học thành danh trên đất Mỹ, điều gì thôi thúc ông có một khát vọng vươn mình mạnh mẽ đến vậy?
Giáo sư Trương Nguyện Thành: Với tôi, hành trình từ Việt Nam đến Mỹ phải trả một cái giá khá đắt. Ở thời điểm đó, tôi gần như không có đường quay trở về. Tôi thậm chí suýt chết. Trở về từ cửa tử, tôi nhận ra nếu chỉ tồn tại, kiếm đủ sống thì quá phí cuộc đời của mình.
Đã được sống lại thì phải làm sao cho xứng đáng với cái cuộc đời mà mình đã được cho lần thứ hai. Cho nên tôi cần phải vươn mình, vượt lên trên tất cả bằng năng lực cá nhân. Tôi tự nói với bản thân: Mình phải làm gì? Tôi chẳng những phải hiểu biết ngôn ngữ, mà còn phải học giỏi. Hay nói cách khác, tôi phải vượt qua mức trung bình. Một vài người mong muốn “làm vừa đủ sống, học tiếng Anh vừa đủ, kiếm việc làm để mà đủ trả tiền cơm áo gạo tiền”. Đó là lựa chọn của mỗi người, không sao cả.
Tôi tốt nghiệp một trường trung học phổ thông ở làng. Với những điều kiện đó, tôi nghĩ rằng mình làm được thì tất cả những người khác đều có thể, chỉ cần bạn có tư duy và sự quyết tâm.
Tôi nói nói thẳng, tôi không phải một thiên tài. Các bạn thời trung học phổ thông của tôi biết mà. “Ông Thành quậy, yêu đương, rồi thứ đủ thứ chuyện”. Tôi có thể là có một cậu học sinh giỏi toán một tí xíu ở Việt Nam nhưng không thể xếp vào hàng thiên tài toán học hoặc là đơn giản được giải, huy chương vàng toán học. Để theo đuổi mục tiêu, tôi chấp nhận trả giá.
Vậy giá phải trả là cái gì? Đơn giản, tôi sẽ không bận tâm chuyện yêu đương hay tài sản, xe hơi gì đó. Và tôi mất 10 năm liền để thực hiện mục tiêu.
PV: Cũng liên quan đến cụm từ "vươn mình" ông vừa chia sẻ nhưng gần đây được nhắc đến rất nhiều và nó không chỉ dừng lại ở lãnh thổ Việt Nam, ông có nhìn nhận gì về chủ đề này?
Giáo sư Trương Nguyện Thành: Tôi theo dõi khá sát những chủ đề này. Tôi còn chú ý khi Tổng Bí thư Tô Lâm đưa ra những chiến lược phát triển trong những tháng đầu năm. Quyết định tinh gọn bộ máy của Tổng Bí thư Tô Lâm có thể nói là rất can đảm và thuyết phục. Đây là những tín hiệu tích cực.
Muốn vươn lên thì cần phải buông những gánh nặng. Nó như cái gùi mà chúng ta mang trên lưng. Lâu nay trên đường đi, tới đâu thấy cục đá đẹp, ta bỏ lên cái gùi, rồi quên nó đi, mang theo suốt hành trình. Rồi tới một ngày, ta nhận ra cần phải leo lên một tầm cao mới, nhưng trên vai lại mang cái gùi nặng suốt mấy chục năm. Điều đầu tiên trước hết cần phải làm là coi lại cái gùi đúng không?
Tôi đi đi về về Việt Nam cũng đã hơn 10 năm rồi. Từ 2007, tôi về giúp thành phố Hồ Chí Minh xây dựng Viện Khoa học và Công nghệ tính toán, tôi đã làm việc với Ủy ban thành phố. Có thể nói, tôi tiếp xúc rất sát với hệ thống công của nhà nước nên hiểu rất rõ.
Con người ai cũng muốn ổn định, bản năng tự nhiên là tìm kiếm sự an toàn. Nhưng điều đó đồng nghĩa với việc chúng ta không có cơ hội để đạt được đỉnh cao mới. An toàn, ổn định thì sẽ chỉ giữ mình ở đâu đó thôi.
Muốn đạt được cột mốc mới, muốn vươn lên thì mình phải đứng dậy và leo lên. Một khi đứng dậy bám tường, bám núi thì nghĩa là chúng ta đã không an toàn rồi. Cho nên việc chấp nhận rủi ro, chấp nhận sự không an toàn chính là để có cơ hội vươn lên. Là một người Việt kiều, đã quan sát, làm việc với Việt Nam mười mấy năm, tôi rất mừng.
PV: Khi nói đến cải cách, tháo gỡ những điểm nghẽn, nhiều người nghĩ ngay đến việc thay đổi luật lệ, nhưng thực tế lại có những “rào cản vô hình” từ tư duy và cách làm việc cũ. Làm sao để vừa đổi mới vừa tránh sự kháng cự từ bên trong?
Giáo sư Trương Nguyện Thành: Thật sự ra, cơ chế được tạo ra để quản lý một quy trình nào đó, cho nó vận hành một cách an toàn và ít rủi ro. Bất kỳ một cơ chế nào cũng vậy: hạn chế tiêu cực, hạn chế rủi ro và tối ưu quy trình.
Tuy nhiên, tất cả mọi thứ, từ môi trường sống, môi trường làm việc thay đổi liên tục. Điển hình, môi trường làm việc của 5 năm trước khác với môi trường làm việc bây giờ. Và môi trường làm việc 5 năm sau cũng có thể khác xa với hiện tại.
Tôi đưa một cái ví dụ mà cá nhân tôi gọi là trải nghiệm Phó Hiệu trưởng điều hành cho Hoa Sen. Cái này chắc là mọi người biết. Cơ chế thời bấy giờ (2018) là để lên làm hiệu trưởng thì anh phải chứng minh mình có kinh nghiệm tham gia quản lý cấp khoa, phòng của cơ sở giáo dục đại học ít nhất 5 năm ở Việt Nam. Quy định đúng với đặc thù Việt Nam tại thời đó, vì đâu có ai là người nước ngoài về làm việc tương tự?
Đùng một cái, có ông Việt kiều về, rồi Hội đồng quản trị thấy ông này làm được quá nên muốn cho ông lên Hiệu trưởng. Nhưng lúc đó chưa có cơ chế mới. Bấy giờ, Quốc hội xem xét, Bộ Giáo dục thay đổi.
Nhìn chung, cơ chế là do con người làm ra để quản lý một cái quy trình nào đó cho nó hiệu quả và kiểm soát, quản lý rủi ro, quản lý tiêu cực. Nhưng cái quan trọng là mình đánh giá lại những cơ chế này thường xuyên, để mà cập nhật và tối ưu.
Nhưng nếu ta ra một cơ chế rồi năm sau ngồi đánh giá lại, chấp nhận nghe phản ánh từ tất cả các bên liên quan rằng có cần sửa đổi hay không và nên sửa đổi như thế nào thì câu chuyện lại khác. Ý tôi là chúng ta cần có bộ máy để tối ưu cơ chế, cập nhật với những tình hình thay đổi trong môi trường mới. Đây mới là cái cần. Mọi điều luật đưa ra đều đúng ở thời điểm đó nhưng nó có thể sai vào ngày mai. Hay nói cách khác, tôi đề cao việc mình có khả năng sửa sai hơn là việc tối ngày cân nhắc để đưa ra quyết định đúng ngay từ đầu.
PV: Trên thực tế hiện nay, một trong những rào cản lớn là tâm lý “sợ làm sai”, dẫn đến sự e dè trong quyết định. Làm sao để khuyến khích tinh thần đổi mới sáng tạo mà không sợ bị quy trách nhiệm?
Giáo sư Trương Nguyện Thành: Tư duy chung là sợ sai, thực sự ai cũng sợ sai cả. Nếu tôi là ông giám đốc hay là lãnh đạo, khi ra một quyết định, tôi cũng phải đắn đo rằng liệu có đúng hay không? Tôi cũng sợ sai chứ. Nhưng nếu tôi có tâm thế “ở tại thời điểm này tôi cần phải ra cái quyết định đấy” thì mọi chuyện đơn giản hơn nhiều. Đúng hay sai thì nhiều khi ra quyết định rồi mới có dữ liệu để đánh giá ngược lại.
Vậy thì tại sao mình không ở trong tâm thế là sẽ ra quyết định đúng đắn nhất ở thời điểm đó, nhưng lúc nào cũng sẽ học hỏi, thu thập thêm thông tin từ mọi người, lắng nghe phản ánh của những người bị ảnh hưởng bởi quyết định đấy? Bây giờ đắn đo quá thì chúng ta sẽ trì hoãn ra quyết định.
PV: Giáo sư từng có cơ hội ở lại Mỹ với một sự nghiệp ổn định nhưng đã chọn trở về giảng dạy tại Việt Nam. Nếu đặt mình vào vị trí của những người tài đang đứng trước lựa chọn tương tự, Giáo sư sẽ nói gì với họ? Và theo Giáo sư, Việt Nam cần thay đổi điều gì để họ cảm thấy muốn về?
Giáo sư Trương Nguyện Thành: Việc trở về với tôi không đơn giản. Tôi phải đưa lên bàn cân lý trí và cảm xúc suốt cả năm trời. Nhiều người cho rằng tôi có quyết định ngược đời. Vì ở thời điểm đó, tôi sống ở Mỹ bốn mươi mấy năm, trong khi ở Việt Nam chỉ có 18 năm thôi. Có nghĩa rằng 2/3 cuộc đời của tôi ở Mỹ, tôi quen môi trường ở Mỹ hơn. Đầu óc của tôi suy nghĩ theo kiểu xã hội Mỹ.
Câu hỏi đặt ra là nếu về Việt Nam, liệu rằng mình có thể thích nghi được hay không? Liệu rằng những cái mình dự tính có dẫn đến kết quả như mong muốn hay không? Tất cả những cái đó tôi đều cân đo đong đếm. Tôi gọi đó là cuộc chiến nội tâm. Nhưng thực sự, nếu dùng lý trí để quyết định thì tôi sẽ ở lại Mỹ.
Những người thiên về lý trí sẽ cho rằng tôi điên rồ. Tôi quay về là vì giá trị vô hình không cân đo đong đếm được.
Quyết định về nước hay không cần được đánh giá ở mỗi thời điểm trong hành trình phát triển sự nghiệp ở mỗi người. Ngày về nước, tôi đã đạt được những thứ mình cần phải làm cho sự nghiệp ở Mỹ. Mọi thứ bắt đầu chậm lại. Cân nhắc một hồi, tôi nghĩ rằng nếu về Việt Nam thì giá trị sẽ đi lên. Nó giống như phát triển một doanh nghiệp. Một sản phẩm khi đạt gần tới đỉnh thì doanh nghiệp cần phải sáng tạo đưa ra một sản phẩm mới để đẩy thị trường lên một tầng cao mới. Nếu không, nó sẽ chết.
Tôi cũng vậy. Tôi xác định thời gian tiếp theo cần phải làm một cái gì khác để đạt được những cột mốc mới, đẩy đường tăng trưởng của mình đi lên. Cho nên các bạn đi du học hay đang phát triển sự nghiệp ở nước ngoài, chỉ họ mới biết đường tăng trưởng của mình đang ở đâu. Không thể trách việc các bạn không lựa chọn về nước. Quan trọng là họ sẽ chọn nơi nào mà bản thân cảm nhận rằng có môi trường tốt nhất để phát triển.
Bản năng con người là ích kỷ. Bất kỳ ai khi thấy cơ hội phát triển sự nghiệp ở chỗ A tốt hơn chỗ B, mặc dù B vui hơn nhưng cơ hội không tốt, thì họ sẽ chọn ở lại A. Và ngược lại, ai ưu tiên cảm xúc thì sẽ chọn B. Đó là quyết định cá nhân của từng người, tôi không đánh giá được.
Mỗi cá nhân nên chọn con đường phát triển sự nghiệp nào hiệu quả nhất và tối ưu nhất cho đến khi sẵn sàng cho một ngã rẽ mới.
PV: Vậy đâu là vấn đề trong chính sách thu hút nhân tài của Việt Nam?
Giáo sư Trương Nguyện Thành: Từ 2007, tôi về Việt Nam làm việc, tôi đã nghe đến chính sách thu hút nhân tài. Đã mười mấy năm, và thậm chí có thể là trước đó nữa tôi không biết. Và tôi đã nghe về nó hầu như là hàng năm.
Thực sự là phải đặt câu hỏi mười mấy năm nay, có thay đổi được gì hay không? Số lượng Việt kiều mà thành công ở nước ngoài về Việt Nam khá ít, có thể đếm trên đầu ngón tay.
Tôi đưa ra một ví dụ: Hai mươi mấy năm trước, Trung Quốc cũng ở thời điểm chuyển mình, khoa học, công nghệ, sáng tạo…thực sự chưa là gì. Bấy giờ, họ tìm cách làm sao để mình vươn mình, phát triển khoa học và công nghệ.
Trung Quốc đã đưa ra một chính sách có tên là Kế hoạch ngàn người tài (Thousand Talents Program). Sau này, Trường đại học Stanford đưa ra khảo sát và nghiên cứu khoa học đánh giá tính hiệu quả của chính sách đó một cách khoa học. Và họ cho rằng nó rất thành công. Tại sao Việt Nam không học?
Vậy chính sách đó là gì? Một trong những điều cơ bản mà Kế hoạch ngàn người tài khác biệt là ở suy nghĩ. Lúc nào, chúng ta cũng tập trung thu hút Việt kiều, tại sao lại giới hạn cái đối tượng nhân tài của mình như vậy?
Chúng ta muốn người tài về phát triển Việt Nam, thì có cần phải biết anh là có gốc Việt hay anh là người Úc, anh là người Mỹ, Canada, Nhật… hay không? Tôi không cần biết, miễn là anh tài và anh muốn sống ở Việt Nam! Chúng ta đang tự giới hạn thị trường.
Lúc đó, tôi có một người học trò cũ ở Bắc Kinh. Người này tới tận nơi nói thầy tới Bắc Kinh theo chương trình đó và đảm bảo lương không thua ở Mỹ. Tôi sẽ có căn hộ ở tại Bắc Kinh, một năm được cho vài triệu USD để xây dựng phòng lab và cả tiền bay lại Mỹ thăm gia đình một năm hai lần. Họ không biết tôi là gốc Việt à? Biết chứ!
Bạn của tôi đã có một số người Mỹ đi theo chương trình đó rồi sống ở Trung Quốc và khá thành công. Tại vì lúc bấy giờ họ có khả năng, họ có nghiên cứu sinh nhiều vô số.
Quay trở lại với câu chuyện ban đầu. Tại sao chúng ta phải cần người ta về Việt Nam? Tại sao không tạo cầu nối, truyền đạt trí tuệ qua internet.
Nói cách khác, ta đang tự hạn chế mình rất nhiều với lối tư duy rằng phải thu hút trí thức Việt kiều. Chúng ta phải quay lại cái câu hỏi gốc là mình muốn gì? Câu trả lời là “tôi muốn phát triển Việt Nam lên tầm cao mới”. Vậy thì để làm được việc này tôi cần cái gì? Tôi cần các nhân sự có năng lực cao. Những người này từ đâu ra? Tôi không biết, miễn sao có cho tôi là được. Họ có thể là Việt kiều, có thể là người quốc gia khác, và có thể luôn là người Việt Nam.
PV: Thu hút nhân tài được nhiều người cho rằng phần lớn là câu chuyện về lương bổng, nhưng cũng có ý kiến nói rằng môi trường làm việc và cơ hội phát triển mới là yếu tố quyết định. Giáo sư thấy đâu là yếu tố quan trọng nhất? Và Việt Nam nên ưu tiên làm điều gì trước?
Giáo sư Trương Nguyện Thành: Mọi người vẫn hay nhắc đến cụm từ “tháo gỡ điểm nghẽn”. Thực tế có rất nhiều, chúng ta không thể biết hết các điểm nghẽn để mà gỡ. Một ngày chỉ có 24 tiếng đồng hồ thì làm sao ta biết cái nào quan trọng để mà giải quyết. Thì thôi, thay vì tìm điểm nghẽn, ta đi hỏi người tài muốn gì, muốn phát triển như thế nào để tạo điều kiện cho họ. Muốn vươn mình phải chọn những giải pháp mới. Các giải pháp đang làm chỉ giúp ta đi con đường xưa nay thôi. Mà muốn đi tìm giải pháp mới thì mình phải có những ý kiến mới. Nhưng để có những ý kiến mới thì cần phải có những người có tư duy mới, có những bộ não mới.
Thế nhưng, thu nhập chưa bao giờ là gốc rễ của vấn đề. Thứ nhất, chắc chắn những người tài thu nhập họ cao lắm. Thứ hai, những người thực sự tài thường rất “quái”.
Họ có thể làm cho bạn với giá 1 triệu USD hoặc không công. Họ thích thì làm, không thích thì đi. Câu chuyện thu nhập đã được mang ra bàn bạc lâu rồi. Đương nhiên, ai cũng phải đảm bảo đủ cuộc sống. Nhưng cái quan trọng hơn là cách trao quyền cho người tài để họ làm được việc. Nếu tôi trả lương cao nhưng không trao quyền cho anh, tôi giao cho mà anh làm không được, thì chẳng giải quyết được việc gì. Tiền chưa hề là vấn đề với người tài.
PV: Nhiều người hiện nay cũng có suy nghĩ “Tôi nhỏ bé, tôi không thể thay đổi điều gì lớn lao.” Làm sao để thay đổi tâm lý này và truyền cảm hứng để mỗi người đều thấy mình có thể góp phần vào sự vươn lên của cả dân tộc?
Giáo sư Trương Nguyện Thành: Đơn giản thôi, lúc nào cũng ta cũng phải quay về bản chất gốc. Ta hay suy nghĩ giải pháp nhưng lại quên đi gốc của vấn đề là cái gì? Đôi khi ta cho rằng giả định bài toán là vậy, nhưng thực sự nó không phải vậy. Lúc nào cũng quay lại cái gốc. Khi ai đó đưa ra giải pháp thì phải tư duy ngược lại rằng nó giải quyết vấn đề gì. Đó có phải cái ta cần hay không? Càng đi về cái gốc thì chúng ta càng thấy được bao quát hơn.
Mọi người hay nhìn phía ngọn nhưng quên rằng là gốc mới là bất động.
PV: Với bối cảnh hiện tại, nếu có một lộ trình tháo gỡ những rào cản chính sách và thu hút nhân tài, Giáo sư có thể đề xuất một chiến lược trong 5-10 năm tới để Việt Nam thực sự bước vào kỷ nguyên phát triển mạnh mẽ?
Giáo sư Trương Nguyện Thành: Tôi có hai đề xuất, một là về phát triển khoa học, một là sử dụng công nghệ để bình đẳng hóa giáo dục. Tôi đi xe đạp từ Bắc xuống Nam và thấy rất rõ. Tôi vào các bản làng, len lỏi đến mọi ngóc ngách của cuộc sống ở Việt Nam. Tôi hiểu rất rõ.
Cách đây 10 năm, có người hỏi tôi chiến lược phát triển khoa học công nghệ quốc gia, tôi đề cập đến ví dụ nước Mỹ rất rộng, nhưng số viện nghiên cứu quốc gia của họ chỉ đếm trên đầu ngón tay. Họ tập trung vào một số bài toán rất đặc thù. Trong khi đó, Việt Nam có ngàn cái viện nghiên cứu khoa học và trung tâm. Tôi khảo sát và biết có tới gần 2.000 trung tâm và viện nghiên cứu khoa học trên cả nước. Thực sự Việt Nam mình cần con số đó hay không? Và những trung tâm, viện nguyên cứu khoa học đấy có phát huy được hết tác dụng không? Đó là điểm cần tinh gọn.
Theo quan điểm của tôi, để tạo động lực bứt phá cho nghiên cứu khoa học thì cần phải tinh gọn và tổ chức lại những viện hay trung tâm nghiên cứu khoa học. Chẳng hạn như vùng Bắc, Trung, Nam, miền Tây, cao nguyên, mỗi vùng cần được thiết kế một trung tâm nghiên cứu để tập trung phát triển kinh tế, trang bị tất cả những trang thiết bị tiên tiến nhất.
Thu gọn ngân sách chi phí của 2000 trung tâm, chẳng lẽ không đủ để đầu tư cho 5 - 6 trung tâm này.
Hơn nữa, tất cả các trường đại học đều có quyền tiếp cận máy móc, phòng thí nghiệm…như một dịch vụ. Tôi đến chỗ anh làm, và trả cho anh một chút kinh phí. Hay đơn giản tôi gửi cho anh mẫu thử, rồi anh trả kết quả cho tôi với mức giá phù hợp. Điều này sẽ tạo động lực để những trung tâm của Việt Nam không thua kém với các quốc gia khác trên thế giới.
Điều thứ hai, trong tương lai trí tuệ nhân tạo sẽ bình đẳng hóa giáo dục. Hồi xưa giáo dục hay đào tạo ưu tiên cho những người có điều kiện, con em họ được học thêm thầy giỏi, vào những môi trường tốt hơn. Bây giờ trí tuệ nhân tạo sẽ tạo nên những ông thầy tuyệt vời, thậm chí sánh ngang bằng tiến sĩ. Nhờ đó, một cậu bé ở vùng sâu vùng xa cũng có thể tiếp cận kiến thức. Tôi luôn trăn trở làm thế nào để bình đẳng hóa giáo dục, cho mọi người dân ở Việt Nam học hết trung học phổ thông. Chúng ta sử dụng công nghệ, sách giáo khoa điện tử, bài giảng điện có tốn đồng xu nào đâu? Mấy cái đó đưa lên là một đứa trẻ ở vùng sâu hay là ông bác chạy xe ôm 60 tuổi cũng có thể lấy bằng trung học phổ thông.
PV: Nếu Giáo sư hình dung một Việt Nam sau 10 hay 20 năm nữa, khi những điểm nghẽn được tháo gỡ, nhân tài hội tụ về quê hương, thì đất nước sẽ biến đổi như thế nào?
Giáo sư Trương Nguyện Thành: Nếu hỏi rằng tôi ước điều gì trong tương lai 10 năm nữa, tôi sẽ ước là mình được thấy mọi đứa trẻ ở mọi nơi trên Việt Nam đều tiếp cận nền giáo dục chất lượng giống nhau, chứ không phải con cái của những gia đình có điều kiện hoặc ở những cái thành phố lớn mới có được. Tất cả người dân đều có cơ hội để hưởng sự bình đẳng giáo dục ở cấp độ cơ bản nhất đó là phổ thông. Điều này sẽ tạo ra nền tảng cho đất nước phát triển ở tầng cao mới.
Xin cảm ơn Giáo sư đã chia sẻ!