Hoại tử chỏm xương đùi được chú ý đến lần đầu tiên vào năm 1974. Ngày nay, bệnh này khá phổ biến, khoảng 15.000 trường hợp mắc bệnh mỗi năm ở Hoa Kỳ. Ở Việt Nam chưa có thống kê đầy đủ, nhưng theo ghi nhận thì phần lớn các ca phải thay khớp háng nhân tạo là do hoại tử chỏm xương đùi vô mạch ở nam giới, thường là ở tuổi từ 20 đến 50.
Mạch máu nuôi dưỡng vùng chỏm xương đùi rất dễ tổn thương, khi tình trạng cung cấp máu bị giảm không đủ đáp ứng sẽ dẫn đến chết tế bào xương, nên bị chèn ép không thoát được mồ hôi cũng như là chất thải từ tế bào không lưu thông được gây ra hoại tử da, ở phía đùi do không vận động và xoa bóp dịch ứa trệ do tác động của vi khuẩn, vi rút gây ra hoại tử khớp gây ra hoại tử.
Hiện tượng hoại tử dẫn đến sụp xương vùng chỏm đưa đến khớp không hoạt động bình thường. Mạch máu bị tắc dẫn đến phù nề tại chỗ chèn ép trở lại mạch máu, các tế bào tủy xương cũng bị chết và hoạt động tạo xương bị ngưng lại.
Nguyên nhân, triệu chứng của bệnh
Hiện nay, có rất nhiều nguyên nhân gây bệnh có thể do chấn thương của khớp háng (gãy cổ xương đùi, trật khớp háng,...). Bên cạnh đó, nguyên nhân quan trọng gây mắc bệnh cũng có thể là do bệnh nhân có sử dụng rượu và corticoide làm số lượng tế bào gốc xung mô tạo xương ở chỏm xương đùi hoại tử bị giảm đi. Sự giảm số lượng hoặc thay đổi chức năng biệt hóa, nhân lên của tế bào tiền thân có thể dẫn đến mất cân bằng giữa quá trình hình thành tạo cốt bào và quá trình chết theo chương trình hoặc hoại tử và kết quả là hoại tử chỏm xương đùi sẽ xảy ra nếu sự mất cân bằng không được hồi phục.
Triệu chứng sớm của bệnh là các biểu hiện đau vùng khớp háng, tăng lên khi đi lại và đỡ khi nghỉ ngơi. Ở giai đoạn sớm, có thể không thấy hình ảnh tổn thương trên phim Xquang, đôi khi phải chụp cắt lớp hoặc cộng hưởng từ mới xác định được thương tổn.
Phương pháp điều trị
Các biện pháp điều trị phụ thuộc vào mức độ nặng của bệnh, giới tính, tuổi, lối sống và yêu cầu của bệnh nhân. Có 2 hình thức điều trị cơ bản:
Điều trị không phẫu thuật: Khi đã chẩn đoán hoại tử chỏm xương đùi là phải chẩn đoán mức độ của bệnh và hướng điều trị được đặt ra để giải quyết cho bệnh nhân. Cần kiểm soát các yếu tố nguy cơ gây bệnh như hạn chế rượu, hoạt động bơi lặn, tránh làm những công việc nặng . Một vài trường hợp điều trị này có thể không hiệu quả. Nếu bệnh nhân chịu đựng được đau khớp háng khi hoạt động thì giảm trọng lượng tỳ đè lên khớp háng bằng cách chống nạng khi đi lại và dùng thuốc giảm đau kháng viêm non-steroid.
Điều trị phẫu thuật: Mục đích là bảo vệ toàn vẹn chỏm xương đùi bất cứ giá nào và làm ngưng quá trình thoái hoá.
Trong giai đoạn sớm khi chỏm xương đùi chưa biến dạng: phẫu thuật giảm áp trong chỏm xương đùi đem lại thành công. Giảm ép là giải thoát sự tăng áp trong tủy xương dẫn đến tăng sinh mạch máu nuôi. Trong giai đoạn sớm tiên lượng rất tốt.
Trong giai đoạn chỏm xương đùi bị bẹp (độ III và trên độ III) thì có đến trên 70% phải thực hiện phẫu thuật thay thế, vì vậy giai đoạn này sự giải áp chỉ làm chậm trễ thêm sự thay khớp, do đó sự giải áp chỉ đặt ra ở giai đoạn sớm. Vì nguyên nhân của tổn thương HTVKCXĐ là do thiếu máu nuôi dưỡng nên một số tác giả đã sử dụng các vạt xương có cuống mạch nuôi như dùng vạt xương mác có cuống mạch tự do hay dùng vạt xương mào chậu có cuống để điều trị. Những kết quả điều trị ban đầu cho thấy có hiệu quả, nhất là ở những trường hợp tổn thương độ trung bình.
Tuy nhiên, khi cấu trúc giải phẫu của chỏm đùi đã bị biến dạng thì tất cả các biện pháp điều trị nói trên chỉ mang ý nghĩa kéo dài và phẫu thuật thay khớp háng là giải pháp cần phải được trao đổi và thông tin cho bệnh nhân biết. Trong các trường hợp có chỉ định thay khớp háng, hiện nay có thể lựa chọn thay khớp háng bán phần (bipolar) hoặc toàn bộ. Vì đa số bệnh nhân có tổn thương khớp háng đều còn trẻ nên xu thế là sử dụng khớp háng toàn phần không xi măng.
Cách phòng tránh
Bệnh hoại tử chỏm xương đùi rất khó phát hiện, nguyên nhân gây ra bệnh là từ lúc còn trẻ. Khi phát hiện ra bệnh thì mức độ hoại tử sẽ tiến triển nhanh chóng, cần phải có biện pháp can thiệp kịp thời. Đặc biệt, từ lúc chỏm xương đùi còn nguyên vẹn là lí tưởng nhất vì nếu khớp háng thật tốt vẫn sẽ tốt hơn là sử dụng một khớp háng nhân tạo.
Bên cạnh các yếu tố nghề nghiệp có thể gây tai nạn thì cần loại bỏ, hạn chế sử dụng các chất như thuốc lá, bia rượu.
Duyên Trần