Trên địa bàn tỉnh Bình Thuận nói chung và huyện Hàm Thuận Nam nói riêng đều có phần diện tích các ao hồ có thể phát triển nuôi thủy sản nước ngọt. Chính vì vậy, việc áp dụng mô hình nuôi lươn không bùn, tận dụng nguồn thức ăn thừa trong nước thải nuôi lươn, kết hợp nuôi cá trê là hướng đi bền vững và an toàn. Mô hình đang được triển khai tại hộ anh Đặng Minh Hiệp, thôn Phú Khánh, xã Hàm Mỹ, Hàm Thuận Nam.
Mô hình nuôi lươn không bùn của anh Đặng Minh Hiệp nằm cách khá xa khu dân cư.
Tại đây, trên diện tích 1.000m2, anh Hiệp xây dựng mô hình nuôi lươn không bùn trong bể xi măng, phía trên bể có mái che và cho ăn hoàn toàn bằng thức ăn công nghiệp. Nguồn nước xử lý trong quá trình nuôi lươn được anh thu gom đưa xuống ao nuôi cá trê và cá diêu hồng để tận dụng nguồn thức ăn dư thừa.
Chia sẻ với báo Bình Thuận, anh Hiệp cho biết, bản thân bén duyên với nghề nuôi lươn không bùn 3-4 năm nay. Đó là thời điểm dịch Covid-19 bùng phát gây khó khăn cho hoạt động sản xuất nông nghiệp của nông dân.
Vào tháng 6/2021, gia đình được Trung tâm Kỹ thuật và dịch vụ Nông nghiệp huyện Hàm Thuận Nam chọn làm mô hình trình diễn, hỗ trợ 50% chi phí mua con giống và 50% chi phí thức ăn, vật tư thiết yếu (hơn 8 triệu đồng), phần còn lại do người dân tham gia mô hình tự đầu tư. Về quy mô, mức đầu tư triển khai cho 20 m2 nuôi lươn và 100 m2 theo yêu cầu kỹ thuật, thời gian thực hiện từ tháng 6 đến cuối năm 2021.
Ban đầu, anh gặp nhiều khó khăn về kỹ thuật nên nuôi lươn hay bị bệnh nấm rồi chết, gây hao hụt nhiều. Để khắc phục tình trạng này, anh đã tập trung tìm hiểu kinh nghiệm nuôi lươn từ những người nuôi ở tỉnh bạn. Trong quá trình nuôi, anh cũng đã tích lũy, đúc rút được kinh nghiệm nên hiện có thể nắm bắt được từng giai đoạn phát triển của lươn.
Vào cuối năm 2023 anh Hiệp đã sở hữu 24 ô nuôi lươn với kích thước từ 3 - 6m2/ô. Trong đó 5 ô nuôi nhỏ (3m2/ô) anh sử dụng ương con giống, còn lại các ô 6m2 để nuôi lươn thương phẩm và nuôi lươn sinh sản.
Điểm chung các bể nuôi là bên trong và đáy bể đều được ốp gạch men, điều này giúp cho lươn không bị tổn thương, trầy xước. Mặt khác, đáy bể được thiết kế có cống thoát nước để thuận tiện trong việc thay nước và vệ sinh. Để tránh lươn chui ra ngoài qua miệng cống thoát nước, anh Hiệp dùng nắp bịt kín lại. Xuyên suốt quá trình nuôi lươn không bùn, trong bể lúc nào cũng thả giá thể bằng nilon để lươn có nơi trú ẩn.
Theo anh Hiệp, mỗi ngày anh thay nước sạch sẽ cho lươn nuôi trước và sau khi cho ăn. Việc này giúp lươn tránh vi khuẩn xâm nhập, cũng như thúc đẩy sinh trưởng và phát triển tốt, nhanh lớn, ít dịch bệnh.
“Tôi cho lươn ăn hoàn toàn thức ăn công nghiệp từ lúc nhỏ cho đến khi thu hoạch. Trong đó đối với lươn giống, ban đầu tôi luyện cho ăn cám bột (cám cá chình). Khi lớn lên, tùy theo kích cỡ mà cho lươn ăn bằng cám viên (cám cá chẽm) phù hợp”, anh Hiệp chia sẻ với Nông nghiệp Việt Nam.
Cũng theo anh Hiệp, từ ngày nắm bắt kỹ thuật nuôi lươn sinh sản và ấp trứng lươn nở thành công, anh đã chủ động hoàn toàn con giống, giúp mô hình nuôi khép kín. Đồng thời giúp anh thả nuôi lươn theo cách cuốn chiếu quanh năm.
Theo anh Hiệp, để lươn đẻ trứng có tỷ lệ nở cao và cho ra lươn giống khỏe, phải chọn những con lươn khỏe mạnh, có màu vàng, không dị tật, kích cỡ khoảng 1,5 lạng. Lươn đẻ trong ổ mà kiểm tra thấy trứng màu vàng sậm là đủ tuổi, sẽ đưa lên bể ấp.
Quy trình ấp trứng lươn cũng đơn giản, chỉ cần những cái chậu và sử dụng máy sục khí oxy để kích thích trứng lươn nở dễ dàng hơn. Thời gian ấp trứng lươn khoảng 4 - 5 ngày sẽ cho ra lứa lươn con. Sau đó, lươn con được đưa xuống bể nuôi dưỡng khoảng 2 - 3 tháng để đạt kích cỡ lươn giống rồi tiến hành nuôi lươn thịt.
“Hiện mỗi bể kích thước 6m2 tôi nuôi lươn thịt với thời gian từ 8 - 10 tháng là đạt kích cỡ xuất bán. Khi ấy, lươn đạt trọng lượng từ 3 - 4 con/kg và mỗi bể nuôi xuất từ 3 - 4 tạ. Với giá lươn thịt khoảng 140 ngàn đồng/kg, mỗi ngày trung bình tôi xuất bán từ 15 - 20kg, sau khi trừ chi phí lãi 30 - 40 ngàn đồng/kg”, anh Đặng Minh Hiệp chia sẻ.
Anh Hiệp cho biết, so với các đối tượng nuôi khác thì lươn dễ nuôi, lớn nhanh, ít dịch bệnh và thích nghi tốt với môi trường, nguồn nước. Mặt khác, so với các loài thủy sản nước ngọt khác thì lươn có giá trị thương phẩm mang lại cao hơn, thị trường tiêu thụ tốt hơn. Theo đó, hiện nay nhu cầu thị trường ở các chợ tại Tp. Phan Thiết rất lớn nhưng cung không đủ cầu. Do đó, anh Hiệp đang hướng đến việc mở rộng quy mô, diện tích, sản xuất theo quy trình khép kín từ lươn giống đến lươn thịt để tiến tới xây dựng sản phẩm OCOP đồng thời có thể thu mua lươn của bà con tại địa phương.
Minh Hoa (t/h)