Những tranh cãi về người thực hiện bức thư họa này hiện đang là mối quan tâm của nhiều người yêu nghệ thuật và thích sưu tầm văn hóa lịch sử. Người yêu thích thiền phái Trúc Lâm thì đang mơ được chiêm ngưỡng vẻ đẹp của bức họa để thỏa sức tưởng tượng về một vị vua, bỏ hết tất thảy, về với Phật pháp trong cõi hư vô...
Bức tranh triệu đô
Tranh thủy mặc mang tên Trúc Lâm đại sĩ xuất sơn chi đồ được Trần Giám Như thư họa vào năm 1363. Nó là một trong những báu vật ở kho tàng của Hạng Nguyên Biện - một giám thưởng gia nổi tiếng sống vào đời Minh sang đời nhà Thanh. Bức họa này được giữ trong Cố Cung của Trần Giám Như như một quốc bảo. Năm 1922, vua Phổ Nghi - Hoàng đế cuối cùng của nhà Thanh đã bí mật tuồn ra ngoài bức họa này cùng với hơn 1.300 bảo vật. Từ đó, bức họa lưu lạc trong chiến cuộc ở Trung Quốc đến năm 1949, nó cùng một số báu vật khác mới được đưa vào bảo tàng Liêu Ninh lưu giữ. Chính vì nguồn gốc xuất thân là báu vật và bị lưu lạc nên công chúng không có dịp được chiêm ngưỡng. Nguyên bản bức họa này có kích thước 961x28cm và được thể hiện trên chất liệu giấy xuyến. Công chúng biết nhiều đến bức họa thủy mặc Trúc Lâm đại sĩ xuất sơn chi đồ bắt đầu từ bản sao, được bán đấu giá 1,8 triệu USD vào tháng 4/2012.
Cận cảnh bản sao bức tranh.
Tại Việt Nam, bức họa Trúc Lâm đại sĩ xuất sơn chi đồ được người yêu tranh biết đến từ bản sao, được chụp lại trên mạng với những thông tin từ bài thuyết trình của thạc sỹ Phạm Văn Tuấn (Viện Nghiên cứu Hán Nôm). Cùng với những ý kiến đóng góp của các chuyên gia mỹ thuật, sử học, bức họa đã được tái hiện lại một cách đầy đủ về cả giá trị nghệ thuật và lịch sử.
Nhân vật trung tâm trong bức họa là vua Trần Nhân Tông (1258 - 1309), đại sĩ của thiền phái Trúc Lâm. Ông vua này đã hoàn toàn dứt bỏ cả gia tư lẫn triều chính để tu từ năm 1299, đại giác và trở thành đệ nhất tổ của thiền phái Trúc Lâm ở Việt Nam. Với Trúc Lâm đại sĩ xuất sơn đồ, lần đầu tiên người xem được diện kiến ảnh tượng Phật Hoàng (ngồi cáng) an nhiên mà sinh động, xuống núi khởi sự giáo hóa chúng sinh. Đây là bức ảnh độc, không tìm thấy trong kho tư liệu về Trần Nhân Tông. Hiện di ảnh Trần Nhân Tông được lưu giữ đến nay chỉ còn đôi ba bức họa và tôn tượng nên bức họa Trúc Lâm đại sĩ xuất sơn chi đồ là một tư liệu quý giá. Nó không chỉ có giá trị về một sự kiện lịch sử mà còn tiết lộ chân dung vốn rất hiếm hoi của Thượng hoàng Trần Nhân Tông, con gái và Hoàng đế Trần Anh Tông (1267 - 1320).
Bức thư họa có tổng chiều dài lên đến 9.61m trong đó 3.1m là phần lòng tranh, còn lại là triện đầu tranh và các bài bạt tựa phía sau tranh được cho là của họa gia Trần Giám Như. Các sử gia, chuyên gia mỹ thuật Việt Nam đang đặt dấu chấm hỏi về tác giả thực của bức thư họa. Bởi một giám thưởng gia ở thời kỳ nhà Minh, làm sao biết được vua Trần Nhân Tông dứt bỏ bụi trần, lên núi tu hành để họa bức thư họa có giá trị lịch sử và nghệ thuật đến thế? Có thể, vì những lý do chưa rõ ràng, nên bức thư họa vẫn cứ lưu lạc, lang thang chăng?
Kiệt tác thư họa
Thư pháp hợp cùng họa phẩm tạo nên một chỉnh thể nghệ thuật thư - họa đặc sắc ở bức thư họa Trúc Lâm đại sĩ xuất sơn chi đồ... Màu sắc dùng để tái hiện bức tranh là hai màu nguyên bản đen và trắng kết hợp với bút pháp tái hiện mây, núi, sông, cùng tùng, trúc, cây cổ thụ mang tính ước lệ như cây bồ đề, cây phong xen lẫn cây cỏ dại ven đường tạo hiệu ứng thẩm mỹ về không gian và thời gian. Với các điểm nhấn về con người, voi, ngựa, trâu, hạc cùng võng lọng, ngai, nghi trượng... làm nên một chỉnh thể hoàn chỉnh về bố cục của bức thư họa.
Sự tinh tế trong bút pháp khắc họa thể hiện ở trang phục của các nhân vật mặc. Tranh có hơn 80 nhân vật trong đó nhân vật chính trong bức họa là một số tăng nhân Ấn Độ. Với đặc trưng về dị tộc rất đặc thù như tăng nhân Ấn Độ tay cầm tích trượng, bình bát, kinh quyển. Phía đoàn đón rước có vua Trần Anh Tông cùng các tùy tùng cung nghinh Phật hoàng khi người xuống núi. Nhóm phục vụ đi sau vua Anh Tông có trang phục áo chẽn đến nách, cầm gậy trên trông như lông chim còn nhóm phục vụ nghi trượng gồm 10 người tay cầm nghi trượng, áo cụt đến khuỷu tay. Nhóm quan lại phía trước vua Anh Tông, gồm: 2 quan võ, cầm gươm và 5 quan văn đi giày nghiêm cẩn, tay chắp tôn kính. Đặc biệt nhóm ra đón, mũ giống nhau. Các tùy tùng khiêng ngai, kiệu, dắt ngựa, cầm đao, trừ những quan văn võ trong triều thì còn lại đều đi chân đất.
Tâm điểm hay còn gọi là trung tâm của bức thư họa là Phật hoàng Trần Nhân Tông ngồi trên cáng từ động Vũ Lâm xuất du xuống núi với 8 đệ tử là tăng sĩ và 4 phu khiêng, 2 phu cầm quạt lông và lọng nan; hai đệ tử, 1 cầm gậy trúc, 1 cầm phất trần, còn lại đi phía sau. Hình ảnh vua Trần Nhân Tông được tái hiện đầy thần thái với mày dài, có râu, tai to, tay lần tràng hạt. Họa sỹ Vương Hòa đánh giá: "Đây là một tuyệt phẩm cả về nội dung lẫn hình thức. Một số hình ảnh mang tính ước lệ như voi tải kinh, hạc dẫn đường nhưng lại đóng vai trò là điểm nhấn góp phần làm hoàn hảo bố cục của bức tranh. Voi trong bức thư họa này đẹp hơn hẳn so với các tranh Trung Quốc khác".
Nghi vấn về tác giả thực
Bên cạnh giá trị nghệ thuật hàm chứa của bức thư họa thì một số những tranh cãi bên lề về thông tin của Trần Giám Như - được coi là tác giả bức tranh quý hiếm này cũng khiến nhiều người quan tâm. Trần Giám Như là họa sư đời Nguyên, một thượng thủ về tranh vẽ truyền thần, học trò của Triệu Mạnh Phủ, và cũng đã nhiều lần vẽ chân dung cho Triệu Mạnh Phủ. Hiện tại, tác giả bức thư họa Trúc Lâm đại sĩ xuất sơn chi đồ là Trần Giám Như, được công nhận là một họa sỹ người Trung Quốc. Tuy nhiên, không ít giả thuyết đặt ra cho rằng Trần Giám Như là người Việt. Bởi ông vẽ rất thật con người, con vật, tỉ lệ, không gian của người Việt hoặc sau khi Mạnh Phủ chết (1322) Giám Như vẫn đương là họa gia đứng đầu trong triều, nhưng ông đã sang Đại Việt và vẽ bức tranh vào năm 1363. Chính các học giả hiện đại của Trung Hoa đưa ra khả năng, Giám Như không phải là tác giả của bức thư họa nổi tiếng ấy. Đó là nghi ngờ, song cũng có những lý do nhất định có sự nghi ngờ đó. Hơn nữa, người đề tên ở bức thư họa đó là Trần Đăng - một bậc thượng thủ viết triện thời Minh, hiện còn nhiều tác phẩm để lại. Theo nhà nghiên cứu văn học dân gian Nguyễn Hùng Vỹ - giảng viên bộ môn Văn hóa dân gian - trường Đại học khoa học xã hội và nhân văn thì: "Nội dung trong đề bạt nhiều điểm giống với nội dung Thánh Đăng ngữ lục, tam tổ thực lục, trong thư tịch Phật giáo hiện còn lưu".
Điều đáng nói, bức thư họa có sự hiện diện của 3 nhân vật họ Trần, liên quan đến Trúc Lâm đại sĩ xuất sơn đồ là Trần Giám Như, Trần Đăng và Trần Quang Chi. Chính 3 nhân vật họ Trần này đã gây ra sự chú ý và tranh cãi. Trong bài thuyết trình của mình, thạc sỹ Phạm Văn Tuấn, dựa vào những bài bình, tấu trong cuộn tranh để có thể đưa ra kết luận: Vào khoảng năm 1420, họa phẩm mới trở thành sở hữu của Trần Quang Chi, người sông Lô. Trước đó, tranh thuộc về Trần Đăng. Tuy nhiên không rõ Trần Đăng sở hữu bức tranh thời điểm điểm, ngay sau khi Giám Như hoàn thành tác phẩm (1363), hay phải đợi đến vài năm sau đó. Họa phẩm của Trần Giám Như thật đáng chú ý vì lẽ nó là tác phẩm của một danh họa sống dưới một vương triều từng bị đánh bại đôi lần bởi vị Hoàng đế trong tranh và chủ nhân của nó. Trần Quang Chỉ có thể là một hậu duệ nhà Trần lưu lạc sang Trung Quốc. Điều đáng chú ý trong bức tranh có sự hiện diện của đạo sĩ Hoa Lâm Thời - là dấu tích giao lưu văn hóa Việt - Trung rõ rệt.
Nguyên bản Trúc Lâm đại sĩ xuất sơn chi đồ đang được lưu giữ ở Trung Quốc khiến người yêu thích thiền phái Trúc Lâm, yêu thích vị vua thành Phật và yêu thích lịch sử không khỏi tiếc nuối.
Theo Đại Việt sử kí toàn thư ghi chép, thì Vua Trần Nhân Tông xuất gia ở động Vũ Lâm, tỉnh Ninh Bình ngày nay. Điều này phù hợp với nội dung trong bức thư họa mô tả cảnh Hoàng đế Trần Nhân Tông đi từ động Vũ Lâm (Ninh Bình) ra Thăng Long. Triện đầu tranh và các bài bạt tựa phía sau tranh được các danh sĩ đời Minh viết thêm lời bình dẫn nhằm tôn vinh và tái hiện một cách hoàn hảo về thần thái của bức tranh. Bài dẫn của Đinh thời Đinh Vĩnh Lạc 18, viết năm 1420 thể hiện: "Nay bức họa miêu tả lúc ông (Trần Nhân Tông) từ động Vũ Lâm xuất du. Đại sĩ ngồi trên cáng, còn các tùy tùng đều khoác áo tăng. Voi trắng chở kinh đi ở sau cùng. Phía trước voi có người đội mũ vàng, cưỡi trâu, ấy hẳn là đạo sĩ Lâm Thời Vũ. Cung nghênh trên đường chính là con của đại sĩ, người nối ngôi, thay cha trị nước". |
Tuệ Linh