Theo truyền thống, cứ giao thừa hoặc mùng 1, các gia đình người Việt lại tụ họp đông đủ. Đây là dịp để con cháu chúc Tết ông bà, cha mẹ và nhận lì xì mừng tuổi. Tục lì xì là cầu chúc may mắn, sức khỏe và tài lộc tới mọi người. Theo đó cả người nhận và tặng phong bao lì xì đều gặp những điều tốt lành trong năm mới.
Ý nghĩa tục lì xì
Ý nghĩa của phong bao lì xì không nằm ở số tiền mừng bên trong. Tiền lì xì thường là những món tiền nhỏ, gồm cả tiền lẻ và tiền chẵn. Thường người ta sử dụng những tờ tiền mới để mừng tuổi đầu năm. Tiền mới tượng trưng cho sự mới mẻ, tinh khôi, một khởi đầu mới.
Chiếc phong bao còn tượng trưng cho sự kín đáo, không muốn người nhận có sự so bì, tị nạnh. Do đó, người nhận không mở phong bao trước mặt người tặng.
Ngày nay, việc mừng tuổi cũng không còn giới hạn trong ngày mùng 1 hay ba ngày đầu năm nữa, mà còn có thể kéo dài đến hết tháng Giêng.
Ngoài người thân trong gia đình, tục lì xì đã mở rộng khi bạn bè, đối tác, hàng xóm chúc Tết cũng có thể lì xì lẫn nhau. Khi đó phong bao lì xì còn có ý nghĩa tượng trưng cho sức khỏe, thành đạt, hạnh phúc.
PGS. TS Phạm Văn Tình (Tổng thơ kí Hội ngôn ngữ học Việt Nam) cho biết: “Lì xì, đó là một từ đã rất quen thuộc và được nhắc đến nhiều mỗi khi vào dịp Tết đến xuân về. Ít ai biết rằng, từ này cũng mới chỉ xuất hiện (và càng ngày càng trở nên đắc dụng với tần số cao tới mức đáng ngạc nhiên) trong giao tiếp tiếng Việt vào khoảng vài chục năm trở lại đây.
Bây giờ, mỗi khi có khách đến nhà ai chúc Tết là bọn trẻ lại mỏi mắt chờ đợi “tiết mục” lì xì. Chúng háo hức đến mức bỏ ăn bỏ chơi, chỉ mong sao khách đừng lơ đãng mà “quên” mình. Mà khách thì quên sao được nhiệm vụ trọng đại này? Chưa rút ví “phát chẩn” thì coi như chưa thể yên tâm chào gia chủ ra về được đâu đấy”.
Từ lì xì đi vào từ điển từ bao giờ và tồn tại ra sao?
PGS.TS Phạm Văn Tình cho biết: “Từ điển tiếng Việt (Viện Ngôn ngữ học, NXB Từ điển Bách khoa, 2010) vẫn coi lì xì có xuất xứ từ phương ngữ, với nghĩa là “mừng tuổi (bằng tiền)”. Có lẽ do ban đầu từ này chỉ thấy xuất hiện ở miền Nam (chủ yếu ở vùng Chợ Lớn - Sài Gòn trước đây), sau này mới lan dần ra toàn quốc.
Theo nhiều nhà nghiên cứu, Chợ Lớn là trung tâm buôn bán có nhiều người Hoa sinh sống. Lì xì (cũng có người đọc lầy xì) là cách nói Việt hoá âm Quảng Đông (Trung Quốc), đọc chính âm Hán - Việt là lợi thị (利市, điều tốt lành, (có) lợi lộc, (có) vận may, vận tốt...).
Tương truyền là từ đời Đường, nhà vua khi nhận lễ vật của khách bốn phương cúng tiến, thường bớt một chút quà đó tặng lại khách (như tục lại quả trong đám ăn hỏi ở ta) gọi là lộc vua. Thói quen đó lan rộng ra các gia đình quan lại, quyền quý, khá giả.
Nhưng việc bớt lại lễ vật nhiều khi cũng bất tiện. Bởi có phải lễ vật nào (như trâu gà dê lợn, vàng bạc, ngà voi...) cũng “xẻo” ra một chút được đâu. Vả lại lễ vật cũng nhiêu khê, cồng kềnh, khó gói, khó mang. Nên người ta liền “cải tiến”, cho một chút tiền vào “phong bao” tặng lại. Một cách đáp lễ tiện cả đôi đường. Rồi thói quen này trở thành phong tục dân gian nhân lễ tết nói chung.
Ở Việt Nam ta, tục mừng tuổi cũng có từ lâu. Thường thì nhân dịp Tết Nguyên Đán, ông bà cha mẹ hay tụ tập con cháu nhân sáng mồng một Tết, chúc tụng và mừng tuổi cho mỗi người một chút tiền (tiền chinh, bằng kim loại, trước đó được gói chung trong túi vải điều và đặt trên bàn thờ, thắp hương).Đó là một cử chỉ lấy “khước” cho con cháu khoẻ mạnh, học hành giỏi giang, làm ăn phát đạt, tài lộc dồi dào. Âu cũng là một phong tục đẹp trong dân gian (Theo Phan Kế Bính, Việt Nam phong tục)”.
Chuyện lì xì biến tướng
Theo PGS.TS Phạm Văn Tình, tất cả các hình thức phong bao (mừng tuổi, mừng thọ, mừng nhà mới, mừng lên chức, lên lương, mừng sinh nhật,...) người ta đều lì xì hết (Và rõ ràng, nếu dùng từ mừng tuổi sẽ hẹp hơn nhiều về phạm vi sử dụng).
Dĩ nhiên là chẳng có ai đi lì xì bằng tiền xu cả. Tiền lẻ một, hai ngàn cũng hầu như không dùng. Chí ít cũng từ năm, mười, hai mươi ngàn trở lên. Với nhiều trường hợp (như lì xì cho bọn trẻ), người ta vẫn có thói quen “đưa thẳng”. Người cho, người nhận, chủ và khách công khai chứng kiến số tiền rút ví.
Nhưng nhiều trường hợp, để cho sang cho đẹp, và cũng để tế nhị, người ta lại cho trước vào các bao lì xì in sẵn (sau khi đã cân nhắc kĩ là nên đặt bao nhiêu cho phải). Độ dày mỏng của phong bao cũng tỉ lệ thuận với nhu cầu thực tế quan hệ và tính quan trọng của “vấn đề”. Lì xì bằng “Việt Nam đồng” và bằng ngoại tệ, đều có cả.
Lì xì năm, mười ngàn VND cũng có. Trăm ngàn cũng có. Nhưng cũng chẳng hiếm bao lì xì “cõng” tới vài trăm hay cả ngàn USD (Thế này thì cả Tây lẫn Tàu đều phải “chào thua”). Yên tâm, có nặng “đô” thì việc lớn mới “nhẹ” đường đi được. Con đường đi vòng (qua phong lì xì) có khi lại lại là con đường ngắn nhất. Lôgich cuộc sống thế mà. Chẳng đi đâu mà thiệt!
Vì vậy, cái bao lì xì đỏ chói, in hình ông Phúc, ông Thọ hay chú hài đồng bằng nhũ vàng kia theo thời gian đã mất dần ý nghĩa của nó. Chả nói gì các sếp, tuy tay đỡ gói quà nhưng mắt vẫn liếc nhanh về phong “lì xì” đặt ý tứ cạnh chai rượu, tấm thiệp.
Trẻ con bây giờ cũng chả kém cạnh. Chúng nhanh chóng xếp hàng chào khách (không thiếu một ai) và sau đó nhanh chóng lui về chỗ khuất để “kiểm kê” tài sản tại trận. Ý nghĩa nào chưa biết, chỉ biết rằng tự nhiên chúng được hưởng một khoản tiền “kếch xù” (Chúng có biết đâu nếu không vì bố mẹ chúng thì vị khách sộp kia không bao giờ “chơi đẹp” đến vậy).
Còn bao lì xì xinh xinh tội nghiệp kia thì ngay lập tức, bị quẳng tắp lự vào xó nhà rồi lặng lẽ nằm chung với lá bánh chưng, vỏ hộp kẹo, nút chai... trong sọt rác.
PGS. TS Phạm Văn Tình đã phải thốt lên rằng: “Ôi, bây giờ đúng là đã có tới ‘ngàn lẻ một’ chuyện lì xì đó.
Xuân sang Tết đến, lì xì
Phong bao đỏ chói đâu vì cầu may
Mà sau một cái bắt tay
Ấy lời “thông điệp” việc này, việc kia
Tội nghiệp thay phong lì xì.
Bao nhiêu ý nghĩa biến đi đằng nào…”.