Lừa đảo chiếm đoạt tiền
Ngày 28/8, thông tin từ Cơ quan CSĐT Công an tỉnh Bình Dương cho biết vừa khởi tố, bắt tạm giam Nguyễn Thị Ngọc Dung (SN 1971; ngụ Tp.Dĩ An, tỉnh Bình Dương) để điều tra xử lý hành vi lừa đảo chiếm đoạt tài sản.
Theo hồ sơ, tháng 5/2015, bà T.T.M. (ngụ phường Bình Thắng, Tp.Dĩ An, tỉnh Bình Dương) thông qua các mối quan hệ và có quen biết với Nguyễn Thị Ngọc Dung.
Trong quá trình này, bà M. thực hiện ký hợp đồng dịch vụ với đối tượng Nguyễn Thị Ngọc Dung về việc xin cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản gắn liền với đất đối với phần đất có diện tích 200m2 mà bà T.T.M. đã mua trước đó.
Trong quá trình làm việc với bà M., Dung nhiều lần cung cấp các thông tin về việc khó xin được giấy tờ do vướng mắc ở các khâu và cần phải chi nhiều tiền để "bôi trơn" xử lý hồ sơ nhanh chóng.
Do tin tưởng Dung, bà M. đã nhiều lần chuyển tiền (khoảng 8 tỷ) đồng để cho Dung lo công việc và hoàn tất các thủ tục giấy tờ giúp mình. Tuy nhiên, sau đó Dung liên tục lỡ hẹn, tìm cách kéo dài thời gian không giải quyết hồ sơ và các thông tin như hai bên đã ký kết.
Sự việc kéo dài và nghi ngờ mình bị lừa, bà M. đã làm đơn tố cáo cơ quan công an. Sau khi nhận được trình báo, lực lượng chức năng vào cuộc xác minh kiểm tra thì xác định Dung nhận tiền của bà M. với mục địch chiếm đoạt.
Dung nhận tiền của bà M., tuy nhiên không hề sử dụng vào mục đích lo liệu các giấy tờ hồ sơ để phục vụ mục đích cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho bà M..
Cơ quan công an sau khi xem xét và thấy hành vi của Dung đã cấu thành hành vi lừa đảo chiếm đoạt tài sản nên tiến hành bắt giữ phục vụ công tác điều tra, xử lý theo quy định của pháp luật.
Xử lý hình sự
Theo khoản 1 Điều 174 Bộ luật Hình sự 2015 (sửa đổi, bổ sung 2017), người nào bằng thủ đoạn gian dối chiếm đoạt tài sản của người khác trị giá từ 2.000.000 đồng đến dưới 50.000.000 đồng hoặc dưới 2.000.000 đồng nhưng thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm:
Đã bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi chiếm đoạt tài sản mà còn vi phạm; Đã bị kết án về tội này hoặc về một trong các tội quy định tại các điều 168, 169, 170, 171, 172, 173, 175 và 290 của Bộ luật này, chưa được xóa án tích mà còn vi phạm; Gây ảnh hưởng xấu đến an ninh, trật tự, an toàn xã hội; Tài sản là phương tiện kiếm sống chính của người bị hại và gia đình họ; tài sản là kỷ vật, di vật, đồ thờ cúng có giá trị đặc biệt về mặt tinh thần đối với người bị hại.
Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 02 năm đến 07 năm:Có tổ chức; Có tính chất chuyên nghiệp; Chiếm đoạt tài sản trị giá từ 50.000.000 đồng đến dưới 200.000.000 đồng; Tái phạm nguy hiểm; Lợi dụng chức vụ, quyền hạn hoặc lợi dụng danh nghĩa cơ quan, tổ chức; Dùng thủ đoạn xảo quyệt; Chiếm đoạt tài sản trị giá từ 2.000.000 đồng đến dưới 50.000.000 đồng nhưng thuộc một trong các trường hợp quy định tại các điểm a, b, c và d khoản 1 Điều này (khoản 2)
Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 07 năm đến 15 năm: Chiếm đoạt tài sản trị giá từ 200.000.000 đồng đến dưới 500.000.000 đồng; Chiếm đoạt tài sản trị giá từ 50.000.000 đồng đến dưới 200.000.000 đồng nhưng thuộc một trong các trường hợp quy định tại các điểm a, b, c và d khoản 1 Điều này; Lợi dụng thiên tai, dịch bệnh (khoản 3).
Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 12 năm đến 20 năm hoặc tù chung thân: Chiếm đoạt tài sản trị giá 500.000.000 đồng trở lên; Chiếm đoạt tài sản trị giá từ 200.000.000 đồng đến dưới 500.000.000 đồng nhưng thuộc một trong các trường hợp quy định tại các điểm a, b, c và d khoản 1 Điều này; Lợi dụng hoàn cảnh chiến tranh, tình trạng khẩn cấp (khoản 4).
Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến 100.000.000 đồng, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm hoặc tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản".