Tập đoàn Công nghiệp Than - Khoáng sản Việt Nam (TKV) vừa có báo cáo gửi Bộ Công Thương về việc cung ứng than cho điện, ngay sau khi Bộ Công Thương có văn bản chỉ đạo “trong bất luận trường hợp nào, các đơn vị cũng không được để thiếu than cho sản xuất điện”.
Khó cung cấp đủ than cho các nhà máy nhiệt điện
Theo báo cáo của TKV, do tình hình dịch bệnh Covid-19 diễn biến phức tạp cộng với căng thẳng địa chính trị thế giới gia tăng, ngay từ đầu năm 2022, việc triển khai thực hiện kế hoạch sản xuất kinh doanh của Tập đoàn gặp rất nhiều khó khăn đặc thù, ảnh hưởng nghiêm trọng đến hoạt động sản xuất kinh doanh, trong đó có việc cung cấp than cho sản xuất điện.
Về tình hình sản xuất than nguyên khai sản xuất trong quý I/2022, đơn vị ước tính khoảng 10,37 triệu tấn, đạt 26,5% kế hoạch năm, bằng 104,5 % so với cùng kỳ. Than nhập khẩu khoảng 325.000 tấn, đạt 6,9% kế hoạch năm. Tính đến hết ngày 14/3/2022, lượng than tiêu thụ cho các nhà máy điện là 6.342 nghìn tấn, chỉ bằng 17,15% sản lượng theo hợp đồng.
Trong đó, các nhà máy nhiệt điện BOT đã nhận than đạt 19,06% số lượng theo hợp đồng; các nhà máy thuộc Tập đoàn Điện lực Việt Nam (EVN) đạt 16,93%, riêng nhiệt điện Quảng Ninh đã nhận than đạt 22,2%. Một số nhà máy có tỉ lệ nhận than thấp dưới 10% khối lượng hợp đồng là Ninh Bình (4,7%), Duyên Hải 1 (8,1%), Vũng Áng (7%)...
Doanh nghiệp này cũng thông tin, 3 tháng đầu năm 2022, các nhà máy nhiệt điện đăng ký nhu cầu 9.737 nghìn tấn, bằng 26,61% khối lượng theo hợp đồng (không tính Nhiệt điện An Khánh, Ninh Bình, Sơn Động). Nhưng, khối lượng than cấp cho các nhà máy nhiệt điện dự kiến là 8.505 nghìn tấn, bằng 23% sản lượng theo hợp đồng ký năm 2022.
Theo kế hoạch năm 2022, sản lượng than TKV phải cung cấp cho các nhà máy nhiệt điện là 35 triệu tấn, gồm 20,92 triệu tấn than tiêu chuẩn Việt Nam và 14,08 triệu tấn than pha trộn giữa trong nước và than nhập khẩu.
"Kể cả tăng sản lượng than nguyên khai mà không có than nhập khẩu, hoặc than nhập khẩu về chậm, hoặc chất lượng không đảm bảo như kế hoạch thì khó có khả năng cung cấp đủ than cho các nhà máy nhiệt điện", TKV nhận định.
Mong muốn tăng giá bán than
Phía Tập đoàn cho biết, việc đảm bảo sản lượng than cấp cho các nhà máy nhiệt điện theo khối lượng kế hoạch năm 2022 phụ thuộc rất nhiều vào khối lượng, chất lượng than nhập khẩu theo kế hoạch. Tuy nhiên, dự kiến 3 tháng đầu năm, TKV mới chỉ nhận được 325.000 tấn.
Việc không nhập khẩu được than theo đúng tiến độ, TKV cho hay, ngoài nguyên nhân khách quan của thị trường thế giới, còn do đến ngày 2/3/2022, EVN mới chấp thuận cơ chế giá than pha trộn TKV kê khai theo Luật giá, dẫn tới TKV phải đẩy lùi và bỏ lỡ nhiều cơ hội nhập khẩu đủ than về pha trộn theo kế hoạch.
“Hiện nay, sau khi EVN chấp thuận cơ chế giá thì việc tìm được nguồn nhập khẩu than là vô cùng khó khăn và không nhập được các loại than có chất lượng phù hợp để pha trộn, kèm theo giá than thế giới tăng đột biến”, TKV giải thích.
Đơn vị này cho biết, dù đã triển khai mở 4 gói thầu quốc tế mua than nhập khẩu để pha trộn trong quý II/2022 nhưng do giá than thế giới tăng vượt giá đề xuất, cộng thêm ảnh hưởng chiến tranh giữa Nga và Ukraine làm khan hiếm nguồn cung dẫn tới khả năng không có đơn vị trúng thầu.
Theo TKV, có một số nhà máy điện than (kể cả trong EVN và ngoài EVN) đã ký hợp đồng mua bán than dài hạn, trung hạn với TKV, nhưng lại thường xuyên không đảm bảo thực hiện theo cam kết.
“Khi nguồn bên ngoài giá thấp hay điều kiện thời tiết thuận lợi, các nhà máy điện tăng cường lấy than bên ngoài, không tiêu thụ than của TKV (lấy khối lượng ít hơn so với hợp đồng đã ký) dẫn đến tồn kho cao, TKV phải giảm sản lượng sản xuất.
Ngược lại, khi giá cao hay thời tiết không thuận lợi (mưa bão, lũ lụt...) thì lại quay về lấy than của TKV với khối lượng cao, đặc biệt trong điều kiện hiện nay giá than thế giới tăng đạt mức kỷ lục, gấp trên 2 lần so với cùng kỳ năm ngoái”, TKV cho hay.
Thực tế này dẫn đến việc nếu TKV không đưa vào kế hoạch sản xuất, nhập khẩu thì sẽ không đủ nguồn than cung cấp cho các nhà máy điện, do đó dẫn đến kế hoạch sản xuất, kinh doanh than của TKV không ổn định, không đảm bảo nguồn cung ổn định, lâu dài.
Do đó, TKV đề nghị Bộ Công Thương có ý kiến chỉ đạo các nhà máy nhiệt điện tôn trọng và thực hiện nghiêm túc việc nhận than theo hợp đồng dài hạn đã ký kết với TKV.
Bên cạnh đó, phải đăng ký nhu cầu than hàng năm với khối lượng không chênh lệch quá khối lượng bình quân theo hợp đồng dài hạn và thực hiện tiếp nhận đúng khối lượng than đã đăng ký để TKV có kế hoạch đầu tư các dự án và chủ động sản xuất than cung cấp cho sản xuất điện bền vững.
TKV cũng đề nghị Bộ Công Thương báo cáo Chính phủ cho phép các chủ đầu tư các Nhà máy nhiệt điện BOT dùng thêm nguồn than pha trộn nhập khẩu như các nhà máy nhiệt điện khác, do nguồn than trong nước phải đưa vào pha trộn với than nhập khẩu mới đảm bảo đủ than cung cấp cho các Nhà máy nhiệt điện.
Đặc biệt, TKV kiến nghị Chính phủ xem xét tăng giá bán than trong nước, đặc biệt giá bán than cho các Nhà máy nhiệt điện. Bởi trước tình hình giá nguyên liệu, sắt thép năm 2022 tăng vọt lên mức cao nhất trong nhiều năm. Cộng với chi phí chống dịch và tiền lương giữ chân lao động thợ lò tăng cao, làm giảm hiệu quả kinh doanh của TKV.
Trước đó, Bộ Công Thương đã có văn bản số 1225 yêu cầu các đơn vị đảm bảo cung cấp than cho sản xuất điện trước nhu cầu sử dụng điện tăng cao trong thời gian tới.
Theo đó, Bộ Công Thương yêu cầu TKV và Tổng Công ty Đông Bắc thực hiện ngay các biện pháp đảm bảo năng lực sản xuất than, thực hiện mọi giải pháp đảm bảo cung cấp đủ than cho các nhà máy nhiệt điện theo đúng hợp đồng mua bán, cung cấp than đã ký. Đặc biệt là các nhà máy nhiệt điện BOT sử dụng than trong nước để tránh xảy ra tình trạng phía Việt Nam phải bồi thường do ngừng máy vì thiếu nhiên liệu.
Bộ Công Thương nhấn mạnh, trong bất luận trường hợp nào cũng không được để thiếu than cho sản xuất điện theo cam kết tại hợp đồng mua bán, cung cấp than đã ký.
Bộ này cũng yêu cầu EVN chỉ đạo Trung tâm Điều độ hệ thống điện quốc gia có giải pháp điều độ phù hợp với tình hình thực tế cũng như thông báo kế hoạch huy động cập nhật hàng tháng cho chủ đầu tư các nhà máy nhiệt điện than để kịp thời thu xếp nguồn than cho sản xuất điện.