Những giai thoại ly kỳ về tượng bà Đá
Dân làng Bao La của xã Quảng Phú cung kính gọi bức tượng đá không có đầu, một vú là “thần bà Đá”. Những ngày rằm, mùng một người dân thường đến thắp nhang cầu khấn. Nơi “thần” ngự trị, tuyệt nhiên không ai dám xâm phạm.
Tục thờ thần đá là một tín ngưỡng khá phổ biến trong đời sống văn hóa của người Việt từ xa xưa. Nếu như ở các địa phương khác việc thờ cúng thần đá có thể là “thạch thiên thần cẩu”, “kỳ thạch phu nhân” hay “tượng mẹ nằm”… mang ý nghĩa thờ cúng tâm linh, giúp trừ tà, trông coi nhà cửa, cầu phúc, tiêu trừ bệnh tật, thì ở làng Bao La tục thờ “thần đá” mà dân gian thường gọi tượng “bà Đá” theo một tín ngưỡng khác… gắn với những giai thoại ly kỳ về thần một vú, được trời ban xuống dân gian và được nhân dân trong thôn truyền miệng từ đời này sang đời khác.
Chuyện kể rằng cách đây khoảng gần 300 năm về trước, tại thôn Bao La, xã Quảng Phú, huyện Quảng Điền, trong một lần người dân trong làng Bao La nạo vét dưới giếng sâu lấy nước tưới tiêu cho mùa vụ thì phát hiện dưới đáy giếng trước chùa làng Bao La có một tượng đá, ngồi trong tư thế như tượng Phật, hai chân xếp bàn, bàn tay niệm Phật, nhưng có điều kỳ lạ là tượng đá này chỉ có một vú.
Người dân trong làng bàn tán, mỗi người một ý, có vị cao niên trong làng khuyên nên đem tượng đá thả xuống dòng sông, người dân liền nghe theo. Kỳ lạ là khi thả đá xuống dòng sông thì đá chìm, nhưng sau đó trôi xa tới gần 2km.
Nơi thờ bà Đá.
Khi tượng đá trôi xuôi dòng sông tới làng Hạ Cảng thì dừng lại. Một người dân làng Hạ Cảng được báo mộng: “Nhà ngươi về làng Bao La, báo cho dân làng biết đến đây đem ta về thờ, ta sẽ phù hộ cho”. Thấy hình thù kỳ lạ của hòn đá, lại được báo mộng, người thanh niên này sợ hãi chạy một mạch về làng Bao La kể lại giấc mơ của mình.
Nghe người thanh niên này kể thì tượng đá đó có nhiều điểm trùng khớp với tượng đá dân làng Bao La đã thả xuống dòng sông hơn 3 ngày trước. Dân làng Bao La bèn đến Hạ Cảng đem đá về lập miếu để thờ. Ông Dương Nồng - Trưởng thôn Bao La cho biết, lúc đầu tượng “bà Đá” chỉ được thờ trên một mom đất nhỏ trong khuôn viên chùa làng Bao La, nhưng sau đó thấy linh thiêng, người dân đã dựng miếu để thờ.
Sự lạ quanh chuyện "chảy sữa"
Xung quanh miếu thờ bà có những câu chuyện ly kỳ, mà đến nay người dân vẫn không thể hiểu nổi. Vì tin, nên vào dịp lễ, Tết người dân trong làng đều thắp hương khấn vái tại đền và cứ đến 25 Tết hằng năm là may áo cho đá. Cả làng đều nhớ nằm lòng ngày vía của bà là ngày 10 tháng Giêng âm lịch. Hôm đó mọi người đều cầu nguyện, mong được gia đình bình an sức khỏe, tai qua nạn khỏi, bệnh tật tiêu trừ.
Cứ đến ngày 10 tháng Giêng âm lịch hằng năm là tượng đá lại tuôn sữa. Các bậc cao niên của làng Bao La cho biết, từ xa xưa những người trong làng đã rất tin vào sự linh thiêng của miếu bà một vú, niềm tin mãnh liệt ấy được truyền từ đời này sang đời khác.
Ông Nguyễn Trúc - chủ cửa hàng tạp hóa gần miếu “bà Đá”, cho biết: “Anh không tin thì tùy anh, chứ cứ đến ngày 10 tháng Giêng thì vú bà lại chảy sữa, áo của bà bên một vú ướt sũng. Cứ đến ngày ấy sữa lại trào ra”. Ông Ngô Đức, 52 tuổi khẳng định: “Chuyện này dân làng xóm Chùa biết hết. Chuyện sữa chảy đúng vào ngày 10 tháng Giêng đầu năm là có thật đó”.
Ông Lê Quốc Khánh - Phó Chủ tịch UBND xã Quảng Phú, cho biết: “Miếu thờ tượng đá một vú ở thôn Bao La, xã Quảng Phú đã có từ thời xa xưa. Những giai thoại về tượng bà Đá một vú được người dân truyền tụng cả hàng trăm năm nay. Những câu chuyện trên là văn hóa tín ngưỡng của người dân.
Còn về chuyện cứ đến ngày vía bà 10 tháng Giêng chảy sữa thì tôi mới nghe nói, chứ tôi cũng chưa thấy. Về khách quan, đây là một nét đẹp văn hóa tâm linh và khác biệt nên địa phương luôn chủ trương lưu giữ và duy trì”.
Họ cho biết, miếu thờ đã tồn tại hàng trăm năm, trải qua nhiều biến cố, gắn bó với những thăng trầm của mảnh đất này nên nó kết tinh, tập trung linh khí của dân làng. Ông Phan Nồng - Trưởng thôn Bao La cho biết: “Không phải ngẫu nhiên mà dân làng tin vào sự linh thiêng của miếu bà Đá như vậy. Những câu chuyện gieo nhân nào gặp quả ấy và sự trừng phạt khi mạo phạm đến bà một vú luôn được dân làng truyền tụng từ đời này sang đời khác cho đến tận ngày nay”.
Theo Dòng đời