> Muốn nhận máy tính bảng Google Nexus 7 không mất một xu nào, hãy vào đây!
Luật Hôn nhân và gia đình các năm 1959, 1986 và 2000 đều quy định rõ quan hệ hôn nhân chỉ được công nhận khi: đủ điều kiện kết hôn, không vi phạm điều cấm của luật hôn nhân và gia đình và thực hiện thủ tục đăng ký kết hôn tại cơ quan nhà nước có thẩm quyền.
Trên thực tế trước khi Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 được ban hành, tình trạng các cặp vợ chồng tổ chức đám cưới, chung sống với nhau mà không đăng ký kết hôn diễn ra khá phổ biến.
Giải quyết tình trạng này, sau khi Luật Hôn nhân và gia đình 2000 được ban hành, pháp luật hôn nhân và gia đình đã có các văn bản hướng dẫn giải quyết việc đăng ký kết hôn và hệ quả pháp lý đối với các trường hợp chưa đăng ký kết hôn.
Đối với trường hợp tổ chức đám cưới năm 1986 mà không đăng ký kết hôn, luật quy định trong trường hợp quan hệ vợ chồng được xác lập trước ngày 3/1/1987 (thời điểm Luật hôn nhân và gia đình năm 1986 có hiệu lực) mà chưa đăng ký kết hôn thì được khuyến khích đăng ký. Nếu có yêu cầu ly hôn thì được Tòa án giải quyết theo quy định về ly hôn của Luật hôn nhân và gia đình năm 2000.
Tại khoản 1 Thông tư liên tịch số 01/2001/TTLT-TANDTC-VKSNDTC-BTP ngày 3/01/2001 cũng nêu rõ, trong trường hợp quan hệ vợ chồng được xác lập trước ngày 3/1/1987 (ngày Luật hôn nhân và gia đình năm 1986 có hiệu lực) mà chưa đăng ký kết hôn, nếu một bên hoặc cả hai bên có yêu cầu ly hôn, tòa án thụ lý vụ án và áp dụng quy định về ly hôn của Luật hôn nhân và gia đình năm 2000 để giải quyết vụ án ly hôn theo thủ tục chung.
Cần chú ý là trong trường hợp sau khi quan hệ vợ chồng đã được xác lập họ mới thực hiện việc đăng ký kết hôn, quan hệ vợ chồng vẫn được công nhận kể từ ngày xác lập (ngày họ bắt đầu chung sống với nhau như vợ chồng), chứ không phải là chỉ được công nhận kể từ ngày đăng ký kết hôn.
Theo các quy định trên, vợ chồng bạn kết hôn năm 1986, trước ngày Luật Hôn nhân và gia đình năm 1986 có hiệu lực nên dù không thực hiện thủ tục đăng ký kết hôn, quan hệ hôn nhân vẫn được xác lập và công nhận kể từ thời điểm tổ chức đám cưới.
Tuy nhiên, bạn cần lưu ý, quan hệ hôn nhân thực tế của vợ chồng bạn được xác lập năm 1986 cũng cần đủ điều kiện kết hôn và không vi phạm điều cấm kết hôn theo quy định của Luật Hôn nhân và gia đình năm 1959 thì mới được pháp luật hiện hành công nhận là hôn nhân thực tế. Cụ thể:
- Điều kiện kết hôn: Con gái từ 18 tuổi trở lên, con trai từ 20 tuổi trở lên
- Cấm kết hôn đối với: Người đang có vợ có chồng; những người cùng dòng máu về trực hệ, giữa cha mẹ nuôi và con nuôi; giữa anh chị em ruột, anh chị em cùng cha khác mẹ hoặc cùng mẹ khác cha; giữa những người khác có họ trong phạm vi 5 đời hoặc quan hệ thính thuộc về trực hệ; người bất lực hoàn toàn về sinh lý; người mắc một trong các bệnh hủi, hoa liễu, loạn óc mà chưa chữa khỏi.
Trường hợp vợ chồng bạn đủ điều kiện và được pháp luật công nhận là hôn nhân thực tế nay có yêu cầu ly hôn, Tòa án thụ lý vụ án và áp dụng các quy định về ly hôn của Luật hôn nhân và gia đình 2000 để giải quyết vụ án ly hôn theo thủ tục chung.
Theo quy định tại Điều 95 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000, việc phân chia tài sản của vợ chồng bạn khi ly hôn được thực hiện theo nguyên tắc sau:
1. Việc chia tài sản khi ly hôn do các bên thỏa thuận; nếu không thỏa thuận được thì yêu cầu tòa án giải quyết. Tài sản riêng của bên nào thì thuộc quyền sở hữu của bên đó.
2. Việc chia tài sản chung được giải quyết theo các nguyên tắc sau đây:
a) Tài sản chung của vợ chồng về nguyên tắc được chia đôi, nhưng có xem xét hoàn cảnh của mỗi bên, tình trạng tài sản, công sức đóng góp của mỗi bên vào việc tạo lập, duy trì, phát triển tài sản này. Lao động của vợ, chồng trong gia đình được coi như lao động có thu nhập;
b) Bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của vợ, con chưa thành niên hoặc đã thành niên bị tàn tật, mất năng lực hành vi dân sự, không có khả năng lao động và không có tài sản để tự nuôi mình;
c) Bảo vệ lợi ích chính đáng của mỗi bên trong sản xuất, kinh doanh và nghề nghiệp để các bên có điều kiện tiếp tục lao động tạo thu nhập;
d) Tài sản chung của vợ chồng được chia bằng hiện vật hoặc theo giá trị; bên nào nhận phần tài sản bằng hiện vật có giá trị lớn hơn phần mình được hưởng thì phải thanh toán cho bên kia phần giá trị chênh lệch.
3. Việc thanh toán nghĩa vụ chung về tài sản của vợ, chồng do thỏa thuận; nếu không đạt được thì yêu cầu tòa án giải quyết.
Trong trường hợp, vợ chồng bạn không đủ điều kiện để được pháp luật công nhận là hôn nhân thực tế thì không được công nhận là vợ chồng. Tài sản của hai bạn sẽ được chia như sau: tài sản riêng của ai thuộc về người đó, tài sản chung phân chia theo nguyên tắc phân chia tài sản thuộc sở hữu chung theo quy định của Bộ luật dân sự.
Luật sư Phạm Thanh Bình (Vnexpress)