Đào phù vẽ hai vị Thần Đồ và Uất Lũy là hai vị thần khiến ma quỷ rất sợ. Rồi có sự thay đổi lớn khi người ta thay hai thần bằng câu đối. Tiếp đó, thay gỗ bằng giấy hồng điều. Cũng theo quan niệm phương Đông, màu đỏ là màu của máu, của sự tái sinh cũng là màu tượng trưng cho may mắn. Khi văn hóa này du nhập vào đất Việt, nó đã được Việt hóa để phù hợp với văn hóa và phong tục Bách Việt.
Hoàng Sĩ Khải đỗ tiến sĩ năm 1554 làm quan lên đến chức Thượng thư kiêm Tế tửu Quốc Tử Giám triều Mạc đã làm bài thơ Tứ thời khúc vịnh bằng chữ Nôm dài 336 chữ, trong có câu nói về tục treo bùa đào:
Chung Quỳ (tranh) khéo vẽ nên hình
Bùa đào cấm quỷ, phòng linh ngăn tà
Thời Lê, Nho giáo thịnh đến mức các nhà nghiên cứu lịch sử gọi là chế độ phong kiến nhà Lê là quân chủ Nho giáo. Vì thế, câu đối Tết đã trở nên phổ biến trên đất Đại Việt. Các câu đối vừa để xua đuổi ma quỷ vừa là thú chơi cũng là bày tỏ khát vọng của chủ nhà vào một năm mới tốt đẹp. Lại có câu đối ngợi ca cảnh đẹp, phong tục hay của quê hương đất nước. Thế kỷ 15, khắp thành Thăng Long, câu đối treo ở nhà quan, các cửa hàng buôn bán đến nhà dân. Không chỉ có tầng lớp “sĩ, công, thương” mà cả những người làm nghề nông cũng treo câu đối Tết. Tương truyền, một năm, gần đến Giao thừa, vua Lê Thánh Tông vi hành quanh Thăng Long xem con dân trong thành ăn Tết thế nào. Đến một nhà, ngài không thấy treo câu đối, hỏi mới biết đó là một người ở phường nhuộm vải góa vợ, con trai đang đi lính đóng quân ở miền biên ải. Ngài bèn sai lấy giấy bút rồi tự tay mài mực và viết:
Thiên hạ thanh hoàng giai ngã thủ
Triều đình chu tử tổng ngõ gia.
(Xanh vàng thiên hạ đều tay tớ
Đỏ tía triều đình tự cửa ta)
Nho giáo coi trọng đạo đức, tôn ti trật tự và giáo điều nên sinh ra cho chữ và xin chữ vào dịp Tết để treo trong nhà. Những câu đối kèm theo chữ đại tự được viết trên giấy đỏ treo trên tường, ví dụ như: “Ấm hà tư nguyên” (Uống nước sông nhớ đến nguồn), “Đức lưu quang” (Đức chan hòa như ánh sáng). Viết câu đối, hay chữ thường là các bậc túc Nho hoặc người hay chữ. Bên cạnh viết câu đối, các nhà Nho còn viết chữ mừng xuân theo yêu cầu của người xin chữ. Thường là chữ: Xuân, Thọ, Khang, Ninh, Phúc, Đức, Phú quý lộc... Nhà nào không hạnh phúc thì các ông đồ cho chữ Bình, ai nóng vội “Dục tốc bất đạt” thầy cho chữ Nhẫn. Các chữ này được viết to hết khổ giấy.
Trọng chữ và trọng thầy là nét văn hóa đẹp của người Việt Nam. Ở đền Ngọc Sơn (thờ Văn Xương, Trần Hưng Đạo và Quan Công), sau khi Nguyễn Siêu đứng ra tu sửa lại đã cho xây một bể dùng để đốt chữ. Hàng ngày có người đi khắp 36 phường ở Thăng Long lượm các giấy có chữ Nho, chữ Nôm mà người ta bỏ đi mang về đốt vì người ta cho rằng chữ Nho hay chữ Nôm là chữ thánh hiền, không thể để dân giẫm đạp lên.
Vì câu đối bằng chữ Nho phải theo niêm luật rất chặt chẽ, mặt khác không phải ai cũng biết chữ nên câu đối dần được nôm hóa cho dễ hiểu, dễ nhớ. Đầu thế kỷ 20, Nguyễn Khuyến (1835-1909) đã sử dụng tài tình chữ viết của dân tộc, cụ đưa ca dao, tục ngữ, thành ngữ vào câu đối. Trong 67 câu đối hiện còn lưu giữ thì 47 câu đối bằng Nôm. Cụ viết cảnh tết của một nhà nghèo với tinh thần hết sức lạc quan qua giọng điệu hài hước:
Chiều ba mươi, nợ hỏi tít mù, co cẳng đạp thằng bần ra cửa
Sáng mồng một, rượu say túy lúy, giơ tay bồng ông Phúc vào nhà.
Hay:
Có là bao, ba vạn sáu ngàn ngày, được trăm cái Tết
Ước gì nhỉ, một năm mười hai tháng, cả bốn mùa xuân.
Lại có những nhà Nho dùng câu đối Tết để đả kích, lên án kẻ theo Pháp. Một đêm 30 Tết, có nhà Nho ở Hưng Yên đã dán câu đối trước cửa nhà Hoàng Cao Khải ở ấp Thái Hà lên án ông này theo Pháp.
Nửa cuối thể kỷ 19, đầu thế kỷ 20, đoạn ngã tư phố Hàng Bồ-Hàng Thiếc ngày nay chuyên bán giấy của Kẻ Bưởi, nghiên mực làm bằng đá của vùng đá vôi Hà Nam và mực làm ở Hưng Yên cùng các loại giấy và mực nhập từ Tàu. Gần Tết, bên cạnh các cửa hàng này, các ông đồ cũng trải chiếu ngồi thành dãy ở phố Hàng Bồ bán câu đối, hay chữ đã viết sẵn. Hầu hết là những câu tốt lành, ví dụ như treo trong nhà thờ họ thì có: “Con hiếu, cháu hiền, muôn đời thịnh”, ngoài cửa dán câu: “Nước thịnh, dân yên” hoặc viết tên mấy ông tướng trừ ma để trấn quỷ quái. Nếu ai không thích chữ hay câu đối viết sẵn thì trình bày mong muốn để thầy tìm chữ hợp với bản thân và gia cảnh. Câu đối và chữ viết trên giấy hồng điều. Song nhà có tang phải dùng giấy màu vàng hay màu xanh lục. Không chỉ ở phố hàng Bồ, phố Hàng Trống, ngoài bán tranh các cửa hàng cũng bán câu đối Tết. Với những người thông thạo chữ Nho, chữ Nôm thì các ông tự đi mua giấy đỏ có rắc bạc để viết thiếp và câu đối treo dịp Tết.
Nguyễn Phan Lãng là một nhà Nho quê ở huyện Từ Liêm, ông tích cực trong phong trào Đông Kinh nghĩa thục. Năm 1908, ông bị Thực dân Pháp bắt và kết án rồi đầy ra Côn Đảo. Đầu thập kỷ 20 của thế kỷ trước, mãn hạn tù, ông về phố Thuốc Nam (nay là phố Hàng Da) viết chữ, câu đối Tết kiếm ăn. Khi chữ Quốc ngữ được trọng trong xã hội, chữ Pháp dùng trong công sở thì người xin chữ và viết câu đối tết bằng chữ Nôm, chữ Nho ở Hà Nội thưa dần, ông đã làm bài thơ về sa sút của Nho học. Tuy nhiên, bài hay nhất và ý nghĩa nhất là Ông đồ của Vũ Đình Liên đăng trên báo Tinh Hoa năm 1936.
Mỗi năm hoa đào nở
Lại thấy ông đồ già
Mang mực Tầu giấy dó
Bên phố đông người qua
Bao nhiêu người thuê viết
Tấm tắc ngợi khen tài
"Hoa tay thảo những nét
Như phượng múa rồng bay"
...Năm nay đào lại nở
Không thấy ông đồ xưa
Những người muôn năm cũ
Hồn bây giờ ở đâu?
Sau năm 1954, ai viết câu đối hay viết chữ treo dịp Tết bằng chữ Nho, chữ Nôm bị coi là theo tàn dư phong kiến nên không ai dám động bút. Sau đổi mới gần chục năm, thú xin chữ thầy đồ trước Tết sống lại, bắt đầu từ Hà Nội, ban đầu, các thầy đồ họp tự phát ở phố Bà Triệu, sau chuyển ra Văn Miếu. Không chỉ viết chữ Nho, chữ Nôm mà còn có cả chữ, câu đối bằng chữ phổ thông viết theo các thể trông như bức tranh rất đẹp.
Thật mừng văn hóa chơi chữ, treo chữ và câu đối Tết được duy trì.
Nguyễn Ngọc Tiến