Sáng 5/10, Diễn đàn "Thành tựu và định hướng ứng dụng công nghệ sinh học phục vụ phát triển nông nghiệp bền vững trong bối cảnh hội nhập quốc tế" đã được tổ chức nhằm đề xuất các giải pháp cụ thể, tối ưu hóa việc ứng dụng công nghệ sinh học vào sản xuất nông nghiệp, góp phần nâng cao năng suất, chất lượng sản phẩm và đảm bảo an toàn thực phẩm.
Những cản trở của công nghệ sinh học
Phát biểu tại sự kiện, ông Cao Đức Phát - Nguyên Bộ trưởng Bộ NN&PTNT, Chủ tịch HĐQT Viện Nghiên cứu Lúa Quốc tế (IRRI) cho biết: "Công nghệ sinh học đã giúp ngành nông nghiệp đạt nhiều thành tựu trong 30 năm qua". Những công nghệ nổi bật như nuôi cấy mô đã cải thiện năng suất cây trồng như ngô, đậu tương, bông, đóng góp đáng kể vào an ninh lương thực toàn cầu và giảm thiểu việc sử dụng thuốc bảo vệ thực vật.
Trên thế giới, diện tích cây trồng biến đổi gen hiện chiếm khoảng 200 triệu ha, trong đó đậu tương chiếm 80% và ngô hơn 25%. Công nghệ sinh học cũng giúp thúc đẩy việc sử dụng các chế phẩm sinh học, nâng cao hiệu quả mùa vụ và thu nhập cho người nông dân.
"Điều đáng tiếc là áp dụng công nghệ sinh học ở Việt Nam còn chậm, khoảng cách với thế giới có xu hướng ngày càng tăng và chưa đạt mục tiêu của Đảng, Nhà nước đặt ra. Trong đó, cản trở chính là nhận thức", ông Phát nhận định.
Theo Chủ tịch IRRI, công nghệ sinh học đã và phát triển sang công nghệ vi sinh, công nghệ nano, công nghệ tế bào, công nghệ chỉnh sửa gen… giúp ngành nông nghiệp đạt được những đỉnh cao mới. Giới hạn áp dụng công nghệ sinh học cũng không còn bó buộc trong trồng trọt, mà mở ra sang chăn nuôi, thủy sản.
Trong bối cảnh cách mạng công nghiệp 4.0, công nghệ số và AI là những công cụ hỗ trợ đắc lực cho công nghệ sinh học phát triển mạnh hơn.
Tại Việt Nam, ông Nguyễn Hữu Ninh - Phó Vụ trưởng Vụ Khoa học Công nghệ và Môi trường (Bộ NN&PTNT) nhận định: "Tác động của công nghệ sinh học tương đối khó cảm nhận".
Nguyên nhân là bởi nghiên cứu khoa học công nghệ luôn có độ trễ so với thực tế. Những điều chỉnh hôm nay phải nhiều năm sau mới bắt đầu phát huy tác dụng.
Theo ông Ninh, trong giai đoạn từ nay đến 2030, số lượng nhiệm vụ khoa học công nghệ bị giảm so với cách đây 10 năm. Một phần nguyên nhân là bởi một số rào cản về các cơ chế, chính sách, điển hình là Nghị định 70.
"Kết quả nghiên cứu thuộc phạm vi đầu tư của ngân sách Nhà nước sẽ được xem là tài sản Nhà nước. Vì vậy, doanh nghiệp dần kém mặn mà trong việc phối hợp, đầu tư nghiên cứu công nghệ sinh học", ông Ninh nói.
Do nguồn lực bị giới hạn nên đại diện Vụ Khoa học Công nghệ và Môi trường cho rằng khi nghiên cứu công nghệ sinh học nên ưu tiên một số lĩnh vực có khả năng cho ra sản phẩm, sản phẩm có giá trị kinh tế. Đồng thời, tập trung vào kỹ thuật di truyền, bao gồm chỉnh sửa gen, nhân giống vô tính và tái tổ hợp ADN.
Mở đường cho công nghệ sinh học
Bà Sonny Tababa - Giám đốc Công nghệ sinh học CropLife châu Á đánh giá, cây trồng áp dụng công nghệ sinh học giúp Việt Nam thích ứng tốt hơn với biến đổi khí hậu, giúp người dân nâng cao sinh kế, đảm bảo thu nhập, nhất là tại các vùng chưa đảm bảo về nước tưới, vùng sâu, vùng xa.
"Trải qua quá trình 10 năm phát triển công nghệ sinh học, Việt Nam đang trong giai đoạn rực rỡ nhất. Đây là quãng thời gian đủ dài để các bên liên quan có những quan sát, nghiên cứu cặn kẽ về các thành tựu đã đạt được", bà Sonny nói.
Giám đốc Công nghệ sinh học CropLife châu Á nhấn mạnh, công nghệ chỉnh sửa gen đã khẳng định được vai trò, tầm quan trọng trong nền nông nghiệp Việt Nam. Từ đó, vị này khuyến cáo Việt Nam nên có đánh giá tổng thể về hành lang pháp lý, cũng như các giống mới xuất hiện cả về nông sản lẫn dịch hại để có một cách tiếp cận mới, phù hợp với yêu cầu hiện tại.
Theo đại diện của CropLife, cơ quan quản lý nên là đầu mối tiên phong, mở đường cho công nghệ sinh học, giúp người nông dân có điều kiện tiếp cận nhiều hơn với công nghệ mới. Bên cạnh việc tự nghiên cứu về biến đổi gen, Việt Nam có thể tham khảo công nghệ, chính sách của các quốc gia châu Á như Nhật Bản, Thái Lan, Philippines…
Dẫn thống kê từ năm 2015-2023, ông Đinh Công Chính - Cục Trồng trọt cho biết diện tích ngô giảm từ gần 1,2 triệu ha xuống 884.000 ha, năng suất năm 2015 đạt 44,8 tạ/ha nhưng đến năm 2023 chỉ tăng lên 50,2 tạ/ha.
Như vậy, trong 10 năm qua khi đưa ngô chuyển gen vào sản xuất, năng suất ngô của Việt Nam chỉ tăng được lên 540kg/ha (trung bình tăng 54kg/ha/năm). Trong khi đó, tỉ lệ nhập khẩu tăng từ 58,8% lên 68,6%.
Theo ông Chính, diện tích ngô ở Việt Nam giảm dần. Mặc dù năng suất ngô có tăng, nhưng con số này vẫn rất thấp so với kỳ vọng. Do đó, cần tập trung vào hệ vi sinh vật đất và đa dạng sinh học để cải thiện năng suất ngô trong thời gian tới.
Trước mắt, ông Chính kêu gọi các đơn vị cung ứng giống phối hợp chặt chẽ với các sở NN&PTNT địa phương để lập kế hoạch phát triển trung và dài hạn cho các vùng sản xuất ngô chuyên canh lớn.