Nhà thơ, nhà viết kịch Lưu Quang Vũ (1948- 1988), qua đời cách đây tròn 25 năm. Với khoảng 50 tác phẩm sân khấu, Lưu Quang Vũ là một trong những gương mặt xuất sắc của sân khấu đương đại Việt Nam. Anh đã được Nhà nước truy tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh về Văn học- Nghệ thuật. 25 năm đã trôi qua kể từ ngày Lưu Quang Vũ đi vào cõi vĩnh hằng, những tác phẩm của anh vẫn được các nhà hát Trung ương và nhiều tỉnh, thành phố trong cả nước dàn dựng, biểu diễn. Công chúng yêu sân khấu vẫn tìm đến những vở kịch hấp dẫn và mang tính xã hội hết sức nóng bỏng, sâu sắc một thời của Lưu Quang Vũ như: Hồn Trương Ba da hàng thịt; Lời thề thứ 9; Điều không thể mất; Ông không phải là bố tôi...
Vui buồn một thuở
Tôi và Vũ chơi với nhau từ hồi còn trẻ. Vũ lành lành, ngầm ngầm, im im, cười cười, nhẹ nhẹ. Không muốn làm mất lòng ai. Cả nể, cái gì muốn từ chối cũng không từ chối ngay. Khi ngại ngại, khó nói thì xưng tên mình khẽ khẽ. Tôi thì ngược lại, guốc mộc, áo thổ, vòng bạc, không thích ai là dân tộc "Choang" ngay. Và vì thế, chúng tôi chơi với nhau, nhất là có thời gian dài cùng nhau làm tạp chí Sân khấu và sau này, tôi vẽ trang trí sân khấu một số vở của Lưu Quang Vũ.
Những ngày ấy, trước khi về tạp chí Sân khấu (1976), Vũ vẫn cứ lang thang. Thi thoảng, có công việc gì về vẽ, tôi kéo Vũ đi, bởi Vũ làm pa nô quảng cáo, làm mảng màu khá nhanh, trong người Vũ rất có "máu hội họa". Ngoài ra, tôi và Vũ chơi với nhau như tư cách cùng làm thơ. Lúc đó, Vũ đã nổi tiếng, in nửa tập "Hương cây" (cùng "Bếp lửa" của Bằng Việt). Còn tôi, làm thơ chơi, cho mình và đọc cho bạn bè thân tình, không nghĩ đến in ấn và xuất bản. Từ khi về tạp chí Sân khấu, cái máu mê sân khấu từ trong tận cùng tâm hồn Vũ lại trào dậy (có lẽ cả gen di truyền của thân phụ anh - nhà thơ, nhà viết kịch Lưu Quang Thuận nữa). Chính giai đoạn ngót chục năm này là vốn sống về công việc "bếp núc" sân khấu quý giá để Vũ viết trên mấy chục vở kịch, chiếm lĩnh hầu hết sàn diễn sân khấu Việt Nam của thập kỷ 80 - thế kỷ XX.
Tác giả Lê Huy Quang
Cũng những năm tháng ấy, tôi chưa vợ con gì, còn được tự do giữa đám bạn bè đã ổn định gia đình. Có một buồng làm việc nho nhỏ ở khu Văn công Mai Dịch (Cầu Giấy, Hà Nội), hàng tuần, các nhà văn, nhà thơ Phùng Quán, Tạ Vũ, Trúc Cương, Ngọc Thụ, Nhật Tuấn, Trần Hoài Dương, Tường Vân, Chu Hoạch...vào chơi hẳn cả ngày từ sáng đến tối, vẽ và đọc thơ ầm lên. Vũ cũng vậy, lúc buồn, lúc vui, lại túc tắc đạp xe vào với tôi, chiều tối lặng lẽ ra về. Có một ngày mùa thu tháng 9 năm 1980, Vũ cũng lặng lẽ vào tôi như thế. Tôi thoáng thấy Vũ đang có điều gì đó buồn buồn trong lòng mà không tiện nói ra. Gần chiều, Vũ với tay lấy cuộn giấy vẽ, bút vẽ và bột màu. Tôi thấy Vũ loay hoay một lúc, tưởng là Vũ vẽ chơi một cái gì đó. Hóa ra, lúc sau, Vũ đưa tôi xem.
Trên tờ giấy vẽ khổ lớn, Vũ dùng bút vẽ và bột màu, chép chữ rất to như khẩu hiệu, đề tặng tôi mấy câu thơ của anh lúc đó chưa được xuất bản: "Những vần thơ như móng tay day dứt/Trên vỏ dưa xanh thắm của mùa hè/ Cho kẻ không nhà mái lá chở che/Cho ngưng lại nhịp đồng hồ quên lãng/Sợi dây mỏng nối liền ta với bạn/Và ban mai trong mắt những con gà". Nửa tờ giấy còn lại, tôi vẽ chân dung Lưu Quang Vũ. Cho mãi đến sau này, Vũ mới kể tôi biết những day dứt của anh hôm đó, về thơ ca, tình yêu, cuộc đời và cả đời sống gia đình...
Tại hội diễn Sân khấu chuyên nghiệp toàn quốc 1980, đợt 1 được tổ chức tại Hà Nội; Vũ đã chính thức ra mắt và rất thành công với vở kịch nói đầu tay "Người cộng sản trẻ tuổi" (đồng tác giả với Đào Duy Kỳ), do NSND, đạo diễn Phạm Thị Thành dựng cho Nhà hát Tuổi trẻ. Đây chính là tấm giấy thông hành để anh bắt đầu đi vào con đường sáng tác kịch bản sân khấu… Nhớ lại mùa đông năm 1982, đạo diễn Phạm Thị Thành mời tôi thiết kế mỹ thuật vở cải lương "Thủ phạm là ai" (Ngọc Thụ chuyển thể từ kịch nói của Lưu Quang Vũ), cho đoàn Cải lương Thanh Hóa. Chị Thành đã vào làm việc với diễn viên từ mấy hôm trước nên tôi và Vũ hẹn nhau cùng đi tàu hỏa vào sau để dự lễ khởi công.
Vậy mà buổi tối ngày lên đường, tôi chờ Vũ ở cửa ga Hàng Cỏ, cho đến lúc tàu sắp chuyển bánh, mới thấy anh hớt hải đạp xe đến và ủ ê thông báo là bận đột xuất nên không đi cùng được. Sợ nhỡ tàu, tôi bắt tay Vũ và chạy vội vào sân ga, cũng không kịp hỏi lý do "đột xuất" đó là gì nữa…Hai năm sau, cho đến hội diễn Sân khấu năm 1985, tôi lại thiết kế mỹ thuật vở "Vách đá nóng bỏng" của Lưu Quang Vũ cho đoàn Dân ca Thuận Hải (Ninh Thuận và Bình Thuận ngày nay- Huy chương Bạc dành cho vở diễn, Huy chương Vàng thiết kế mỹ thuật; tại hội diễn Sân khấu chuyên nghiệp toàn quốc 1985). Hai tháng trời, rất nhiều lần đi vào làm việc với đoàn cùng đạo diễn Vũ Minh và nhạc sĩ Phó Đức Phương; nhưng chúng tôi không làm thế nào để rủ Vũ đi cùng được - vì lúc nào anh cũng kêu là lại bận "đột xuất" - khi mà ngày ngày, các đoàn kịch trong cả nước cứ đến tận nhà tìm anh để "đòi nợ" kịch bản.
Sau này (mùa đông 1987), trong bài thơ "Cảm tác nỗi niềm sân khấu" tặng Vũ, tôi đã viết để nhớ lại một thuở buồn vui ngày ấy: “Thời chúng mình là hai bàn tay trắng/Trăng trắng suông và mây trắng bay về/Đêm diễn tan rồi em rầu rầu xóm trắng/Sương trắng bay nhoè lá trắng ao quê”.
Cố nghệ sĩ Lưu Quang Vũ
Lưu Quang Vũ- Sân khấu và cuộc đời
Chính trong những năm tám mươi đầy vất vả đó, bằng cách nhìn và sự quan sát tinh tế, đầy nhân bản của một nghệ sĩ, Lưu Quang Vũ đã tìm đến với thế hệ trẻ - lắng nghe những nỗi niềm tâm sự, những khát vọng cháy bỏng và cả những hoài nghi của họ nữa - để viết nên khá nhiều tác phẩm về lớp thanh, thiếu niên trước ngưỡng cửa của thời kỳ đổi mới như "Vụ án 2.000 ngày"; "Bông cúc xanh trên đầm lầy", "Cô gái đội mũ nồi xám"; "Lời thề thứ 9", "Nếu anh không đốt lửa"; "Tôi và chúng ta"; "Vách đá nóng bỏng"… đã để lại những dấu ấn về nghệ thuật cũng như cả nội dung tư tưởng.
Nhưng điều thành công lớn nhất của Lưu Quang Vũ, chính là anh đã đưa ngôn ngữ của kịch nói đến với đông đảo công chúng, được công chúng đón nhận một cách nồng nhiệt - bởi anh đã nói giúp họ nhiều điều về chính bản thân họ, cũng như chính cuộc sống đang hết sức khó khăn mà mỗi một con người đều phải gồng mình lên mới vượt qua được - như ý một lời thoại trong kịch của anh: "Nếu anh không đốt lửa, nếu tôi không đốt lửa, nếu chúng ta không đốt lửa…thì cuộc sống này sẽ chẳng còn ý nghĩa gì nữa"…
Nhưng rồi, phải đến vở "Đôi dòng sữa mẹ" làm cho đoàn kịch Bắc Thái năm 1986, một kỷ niệm nhớ đời mà Vũ và tôi không thể nào quên được. Đó là sau khi vở diễn đã tổng duyệt và công diễn thắng lợi, được bà con Thái Nguyên ngợi khen. 9h sáng, sau khi liên hoan nhẹ nhàng tiễn ê kíp chúng tôi về Hà Nội (tất nhiên là lần này, Vũ cũng bận nên không lên Thái Nguyên), cả đoàn kịch đã tổ chức đi tham quan hồ Núi Cốc. Nhưng rồi, do đúng vào ngày nước lớn đầu tháng 7 âm lịch, chiếc ca nô đã bị lật và chìm xuống hồ. Thật là không may, cả đoàn kịch Bắc Thái đã bị một cái tang lớn: 19 cán bộ, diễn viên và 4 cháu bé đã bị tử nạn, một số bơi được vào bờ, số anh em khác thì chờ đi chuyến sau nên không sao…Chiều tối ở Hà Nội nghe được tin dữ, tôi đến báo với Vũ. Anh ngồi lặng đi một lúc rồi nói, giá như lên Bắc Thái cùng với tôi vài ba ngày, thì được gặp mặt cả đoàn, có lẽ cũng sẽ vợi bớt đi nỗi buồn quá bất ngờ đó. Nhưng rồi, cũng không ai ngờ được, tròn hai năm sau (mùa thu 1988), Lưu Quang Vũ cũng bất ngờ đi xa mãi mãi…
"Đã 27 mùa thu trôi qua, kể từ ngày vở "Đôi dòng sữa mẹ"- vở diễn cuối cùng của Vũ mà tôi thiết kế mỹ thuật và cũng đã tới ngày giỗ lần thứ 25 của Vũ. Tôi chợt nhớ một vài kỷ niệm xưa. Lưu Quang Vũ ơi. Tất cả rồi sẽ qua đi. Cả công và việc. Cả làm và ăn. Cả thọ và yểu. Cả danh và lợi hào nhoáng, hão huyền. Cả lòng tốt đẹp và điều đố kỵ muôn thuở của con người. Duy nhất, chỉ còn lại nghĩa bạn hữu và những gì là giá trị nghệ thuật đích thực giữa cuộc đời này là mãi mãi tươi xanh…" |
NSND Lê Huy Quang