Chiều 11/8, tiếp tục chương trình phiên họp thứ 48, Ủy ban Thường vụ Quốc hội cho ý kiến về việc giải trình, tiếp thu, chỉnh lý dự thảo Luật Tình trạng khẩn cấp.
Đề xuất thẩm quyền của Thủ tướng trong tình trạng khẩn cấp
Thay mặt cơ quan soạn thảo giải trình, tiếp thu về dự án Luật, Đại tướng Nguyễn Tân Cương, Ủy viên Trung ương Đảng, Ủy viên Thường vụ Quân ủy Trung ương, Tổng Tham mưu trưởng Quân đội nhân dân Việt Nam, Thứ trưởng Bộ Quốc phòng cho biết, cơ quan soạn thảo đã phối hợp với Ủy ban Quốc phòng và An ninh khảo sát thực tế tại một số đơn vị, địa phương, đồng thời nghiêm túc tiếp thu ý kiến của các đại biểu Quốc hội tại kỳ họp thứ 9.
"Quan điểm của chúng tôi là hết sức cầu thị để bảo đảm luật khi được áp dụng sẽ dễ thực hiện và không chồng chéo với các luật khác", Đại tướng nhấn mạnh.

Đại tướng Nguyễn Tân Cương, Tổng Tham mưu trưởng Quân đội nhân dân Việt Nam, Thứ trưởng Bộ Quốc phòng (Ảnh: Media Quốc hội).
Theo Đại tướng Nguyễn Tân Cương, cơ quan soạn thảo đã tiếp thu một số nội dung quan trọng. Cụ thể, sẽ bổ sung cụm từ "đe dọa nghiêm trọng" vào Điều 2 để làm rõ hơn các tình huống áp dụng luật.
Đồng thời, tiếp thu ý kiến về việc quy định cụ thể hơn về "biện pháp cấp bách" (Khoản 7, Điều 2) và giao các cấp quy định chi tiết để tăng tính khả thi.
Tuy nhiên, đối với đề nghị quy định chi tiết về trưng mua, trưng dụng tài sản, Đại tướng Nguyễn Tân Cương cho rằng việc này đã được quy định rõ tại Luật Trưng mua, trưng dụng tài sản.
"Nếu quy định cụ thể vào Luật này thì sẽ gây chồng chéo. Vì vậy, dự thảo Luật chỉ nên quy định những nguyên tắc chung, còn khi áp dụng phải tuân thủ các luật chuyên ngành", ông lý giải.
Một trong những vấn đề được đặc biệt quan tâm là thẩm quyền của Thủ tướng Chính phủ (Khoản 3, Điều 12): Trong trường hợp cần thiết, Thủ tướng có thể áp dụng các biện pháp mà pháp luật hiện hành chưa quy định và báo cáo cơ quan có thẩm quyền của Đảng, Quốc hội trong thời gian gần nhất. Thứ trưởng Nguyễn Tân Cương đề nghị giữ lại quy định này để tạo sự linh hoạt trong điều hành.
Ông dẫn chứng từ kinh nghiệm chống dịch Covid-19, có những thời điểm cấp bách cần Thủ tướng ra quyết định ngay cả khi chưa kịp ban bố tình trạng khẩn cấp.
"Cần quy định để trong tình huống cấp bách đe dọa an ninh quốc gia, trật tự an toàn xã hội, Thủ tướng có thể quyết định các biện pháp cần thiết, sau đó báo cáo cấp có thẩm quyền trong thời gian ngắn nhất. Điều này vừa đảm bảo tính cơ động, chủ động, vừa gắn chặt trách nhiệm của người đứng đầu", ông phân tích.
Về tổ chức thực hiện, Thứ trưởng Nguyễn Tân Cương đề nghị không thành lập Ban chỉ đạo và quỹ riêng cho tình trạng khẩn cấp. Thay vào đó, cần vận hành các cơ chế sẵn có.
Ví dụ, khi xảy ra thảm họa, Ban chỉ đạo phòng thủ dân sự và Quỹ phòng thủ dân sự đã hoạt động. Các cơ chế này cần được tiếp tục vận hành trong suốt quá trình xử lý tình trạng khẩn cấp để đảm bảo tính liên tục, thống nhất và tránh lãng phí nguồn lực.
Bên cạnh đó, cơ quan soạn thảo cũng nhất trí với việc phân cấp, phân quyền mạnh mẽ hơn cho các địa phương, giúp chính quyền cơ sở chủ động hơn trong việc thực hiện các biện pháp cần thiết khi có tình huống xảy ra.
Nghiên cứu, tiếp tục hoàn thiện dự án Luật
Làm rõ thêm nội dung này, Phó Thủ tướng Chính phủ Trần Hồng Hà cho rằng cần cân nhắc kỹ lưỡng các tiêu chí xác định "tình trạng khẩn cấp", bao gồm cả khái niệm "đe dọa", để tránh sự tùy tiện.
Ông đồng tình rằng các biện pháp hạn chế quyền công dân trong tình trạng khẩn cấp là những quy định đặc biệt, chưa có tiền lệ hoặc trái với luật hiện hành. Vì vậy, thẩm quyền quyết định phải thuộc về cấp cao nhất là Ủy ban Thường vụ Quốc hội hoặc Thủ tướng Chính phủ.
"Đây là trường hợp rất đặc biệt, liên quan đến hạn chế quyền con người, quyền công dân và phải tuân thủ các quy định pháp luật quốc tế", ông Hà nhấn mạnh.
Đối với quy định về thẩm quyền của Thủ tướng Chính phủ tại Điều 12, Phó Thủ tướng Trần Hồng Hà cho rằng nên đưa vào luật. Ông lý giải, kinh nghiệm từ đại dịch Covid-19 cho thấy có những thời điểm cấp bách cần hành động ngay, dù chưa thể ban bố tình trạng khẩn cấp. Nếu không có quy định này, việc Thủ tướng ra quyết định sẽ thiếu cơ sở pháp lý.
Do đó, việc luật hóa sẽ cho phép Thủ tướng quyết định các biện pháp cần thiết, tạo điều kiện để các cấp, các ngành triển khai các giải pháp tương tự như trong tình trạng khẩn cấp một cách nhanh chóng và thống nhất.

Phó Thủ tướng Chính phủ Trần Hồng Hà (Ảnh: Media Quốc hội).
Về cơ cấu tổ chức, Phó Thủ tướng hoàn toàn nhất trí với phương án không thành lập Ban chỉ đạo và quỹ riêng. Thay vào đó, cần phát huy vai trò của Ban chỉ đạo quốc gia về phòng thủ dân sự và cơ chế phân cấp, phân quyền mạnh mẽ.
Theo đó, khi tình trạng khẩn cấp xảy ra, trách nhiệm quản lý Nhà nước phải được giao cho các bộ, ngành chuyên môn như Bộ Y tế đối với dịch bệnh, Bộ Công thương đối với sự cố hóa chất... để đảm bảo sự chủ động, chuyên nghiệp. Tương tự, trong tình huống khẩn cấp, cần huy động tổng thể mọi nguồn lực của đất nước thay vì trông chờ vào một quỹ định sẵn.
Phó Thủ tướng Trần Hồng Hà khẳng định, Chính phủ sẽ nghiên cứu để tiếp tục hoàn thiện dự án Luật.
Bồi thường do trưng dụng tài sản
Tham gia tại phiên họp, về nội dung bồi thường do trưng dụng tài sản, Phó Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Thị Thanh cho biết, qua rà soát các quy định hiện hành về tình trạng khẩn cấp, có thể thấy dự thảo đã đề cập đến việc huy động, trưng dụng tài sản của tổ chức, cá nhân để phục vụ công tác ứng phó.
Cụ thể như ở khoản 4 Điều 5 có quy định về điều cấm, đó là không hoàn trả tài sản hoặc không bồi thường thiệt hại do việc trưng dụng tài sản. Tuy nhiên, theo bà Thanh đây chỉ là chế tài về cấm nhưng chưa quy định nguyên tắc, thời hạn và quy trình bồi thường.
Cũng tại khoản 4 Điều 31 quy định biện pháp sau khi bãi bỏ tình trạng khẩn cấp, chủ yếu tập trung vào ổn định đời sống, xử lý người bị tạm giữ và bồi thường cho người bị bắt giữ trái pháp luật nhưng chưa đề cập đến việc trực tiếp hoàn trả bồi thường tài sản trưng dụng.
"Như vậy, còn có khoảng trống pháp lý về nguyên tắc hoàn trả, bồi thường và thời hạn giải quyết sau khi kết thúc tình trạng khẩn cấp. Thực tế đã phát sinh nhiều trường hợp tổ chức, cá nhân huy động hoặc trưng dụng tài sản nhưng gặp khó khăn trong yêu cầu bồi thường, quá trình xử lý kéo dài, thiếu căn cứ rõ ràng, gây khiếu nại, khiếu kiện", bà Thanh cho hay.
Do vậy, để khắc phục khoảng trống pháp lý, vừa bảo đảm phù hợp với Điều 32 Hiến pháp năm 2013 về quyền sở hữu tài sản hợp pháp được Nhà nước bảo hộ, việc trưng dụng, trưng mua phải bồi thường theo giá thị trường và Nghị quyết số 27, bảo đảm quyền lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân khi Nhà nước áp dụng biện pháp đặc biệt.
Bà Thanh đề nghị ban soạn thảo nghiên cứu bổ sung một điều hoặc một khoản về hoàn trả và bồi thường tài sản trưng dụng. Trong đó, quy định Nhà nước có trách nhiệm hoàn trả tài sản trưng dụng và bồi thường toàn bộ thiệt hại trực tiếp, trừ trường hợp thiệt hại do lỗi cố ý hoặc vi phạm pháp luật của chủ sở hữu.
Việc hoàn trả bồi thường phải được thực hiện trong thời hạn 60 ngày kể từ khi kết thúc tình trạng khẩn cấp. Trường hợp đặc biệt có thể gia hạn nhưng cũng không quá 90 ngày và phải thông báo bằng văn bản. Mức bồi thường được xác định theo giá thị trường tại thời điểm bồi thường và Chính phủ quy định chi tiết trình tự, thủ tục, cơ quan chi trả và giải quyết khiếu nại.