Cần tìm ra động lực cho những tăng trưởng chính
Tại phần Tọa đàm cấp cao trong khuôn khổ Diễn đàn Kinh tế Việt Nam 2021, nhiều câu hỏi xoay quanh nội dung phục hồi và phát triển bền vững trong thời gian tới đã được đặt ra cho các diễn giả.
Tổng Giám đốc Truyền hình Quốc hội Lê Quang Minh đặt câu hỏi với Chủ nhiệm Ủy ban Kinh tế của Quốc hội Vũ Hồng Thanh: “Trong bối cảnh quốc tế và trong nước như hiện nay, Việt Nam đang phải đối mặt với rất nhiều thách thức; cần phải có ngay những giải pháp để hỗ trợ phục hồi nền kinh tế và tiếp tục phát triển. Nhiều ý kiến cho rằng, Quốc hội cũng đã thể hiện quan điểm chủ động, vào cuộc rất sớm, đề nghị Chủ nhiệm Ủy ban Kinh tế của Quốc hội Vũ Hồng Thanh chia sẻ thêm cách tiếp cận của Quốc hội đối với các chính sách hỗ trợ phục hồi và phát triển kinh tế?”.
Trả lời câu hỏi trên, Chủ nhiệm Ủy ban Kinh tế của Quốc hội Vũ Hồng Thanh cho biết, chính sách tài khóa và tiền tệ là vấn đề rất quan trọng. Chủ tịch Quốc hội đã quan tâm và chỉ đạo các Ủy ban của Quốc hội từ sớm, từ xa, tổ chức nhiều cuộc làm việc với các chuyên gia để thảo luận, đưa ra cơ sở thực tiễn và khoa học phù hợp với thực trạng kinh tế của Việt Nam để xây dựng các gói chính sách hỗ trợ phù hợp.
Chủ nhiệm Ủy ban Kinh tế của Quốc hội Vũ Hồng Thanh cho biết, các chính sách tài khóa và tiền tệ đưa ra cơ bản bám sát các nguyên tắc lớn.
Cụ thể, phải bám sát các quy định của Nhà nước (Kết luận số 20 của Hội nghị lần thứ 4 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng, Nghị quyết 41 về Chất vấn và trả lời chất vấn của Quốc hội…); tập trung hỗ trợ doanh nghiệp, người lao động, kích cầu đầu tư và thị trường; kết hợp hài hòa các chính sách; sử dụng hiệu quả các nguồn lực để phục hồi và phát triển kinh tế; các chính sách đưa ra phải đủ lớn, có trọng tâm, trọng điểm để tạo ra cú hích, thay đổi cần thiết cho nền kinh tế nước ta; bảo đảm các gói kích thích khả thi và được thực thi nhanh, tập trung vào các lĩnh vực có tính lan tỏa rộng; bảo đảm ổn định kinh tế vĩ mô, các cân đối lớn của nền kinh tế, đảm bảo tính dài hạn và an ninh an toàn tài chính quốc gia; các chính sách huy động, phân bổ nguồn lực bảo đảm công khai minh bạch…
Với câu hỏi đại dịch Covid-19 ảnh hưởng lớn tới nền kinh tế. Tuy nhiên, kết quả phòng chống dịch bệnh của Việt Nam trong thời gian qua đã cho thấy bước đầu về những kết quả khả quan. Vậy, đâu là động lực cho những tăng trưởng chính đối với nền kinh tế trong thời gian tới?
Phó trưởng Ban Kinh tế Trung ương Nguyễn Thành Phong cho rằng, nếu giả sử như năm 2020 và 2021 không có đại dịch Covid-19 xảy ra thì GDP của Việt Nam tăng trưởng khoảng 7%. Tuy nhiên, trong thực tế, đại dịch xảy ra thì tăng trưởng kinh tế của Việt Nam trong năm 2020 chỉ tăng 2,91% và năm 2021 dự kiến chỉ tăng 2,5%.
Để giảm thiệt hại cho nền kinh tế, Việt Nam cần tìm ra các biện pháp, cách thức để nhanh chóng phục hồi đà tăng trưởng. Do đó, cần tìm ra động lực cho những tăng trưởng chính đối với nền kinh tế trong thời gian tới.
Việt Nam là nền kinh tế có độ mở lớn. Tổng kim ngạch xuất, nhập khẩu so với GDP vượt khoảng 200%. Đối với các quốc gia có tốc độ tăng trưởng kinh tế nhanh đều biết dựa vào thị trường rộng lớn ở bên ngoài và mở rộng quy mô sản xuất, thu ngoại tệ để nhập khẩu những thiết bị cần thiết. Thực tế cho thấy, khả năng mở rộng tăng cung cho nền kinh tế phụ thuộc rất lớn vào mức độ đầu tư.
Vì thế, các động lực chủ yếu cho tăng trưởng kinh tế hiện nay là đầu tư để vừa tăng cầu và cũng vừa tăng sản lượng tiềm năng. Tức là mở rộng khả năng cung ứng, đẩy mạnh tiêu dùng trong nước, mở rộng đầu tư, ứng dụng công nghệ số để đổi mới cách thức sản xuất, tiêu dùng và đầu tư có hiệu quả. Trong đó, đầu tư là điều kiện cần, xuất khẩu là điều kiện đủ, tiêu dùng nội địa là yếu tố tăng thêm, chuyển đổi số là yếu tố thời đại.
Việc khuyến khích tiêu dùng đầu tư nội địa rất cần thiết nhưng nếu tăng đầu tư quá mức thì sẽ làm giảm tiết kiệm và qua đó giảm đầu tư hoặc làm phụ thuộc vào đầu tư nước ngoài. Vì thế, việc khai thác thị trường trong nước nên chú trọng vào sản xuất hàng hóa tiêu dùng thay thế hàng nhập khẩu.
Thông qua sự phát triển kinh tế của Việt Nam đã cho thấy, xuất khẩu và đầu tư nước ngoài là những yếu tố quan trọng để tạo được niềm tin của các nhà đầu tư trong nước. Tuy nhiên, đầu tư của Nhà nước vẫn đóng vai trò dẫn dắt để phục hồi nền kinh tế. Vì thế, sự đầu tư của Nhà nước nên tập trung vào cơ sở hạ tầng, nhân lực, khoa học công nghệ...
Trong điều kiện phục hồi kinh tế, Việt Nam nên hạ thấp lãi suất ngân hàng, cần có gói kích thích kinh tế cũng như tái lập được cung ứng lao động để phục cho các sự hồi phục sản xuất, kinh doanh của các doanh nghiệp.
Dư địa lớn cho phát triển kinh tế số
Trong khi đó, ông Bùi Nhật Quang, Chủ tịch Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam cho biết Diễn đàn sáng nay đã đưa ra nhiều giải pháp khác nhau để nền kinh tế thật sự phục hồi và có tính bền vững. Nhóm nghiên cứu của Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam đã có nhiều đánh giá, trong đó phát triển kinh tế số là một trong những lựa chọn đáng quan tâm trong bối cảnh hiện nay để có thể phục hồi bền vững.
Kinh tế số không phải chủ đề mới trong 5 năm gần đây, từ những phương thức sơ khai như kinh tế Internet, giao dịch trên mạng, đến những phát triển cao hơn như nội dung số, nền tảng số, Internet kết nối vạn vật, dữ liệu điện toán đám mây, phát triển trí tuệ nhân tạo… Đây là những biểu hiện rất quan trọng của kinh tế số và chuyển đổi số. Đây cũng là cơ hội để chúng ta xem xét lại cả quy trình, tiếp tục mục tiêu đặt ra rất xuyên suốt là phục hồi tăng trưởng, đồng thời thực hiện các khâu đột phá chiến lược như Nghị quyết của Đảng Cộng sản Việt Nam đã nêu ra, trong đó tính toán tiếp tục việc tái cấu trúc mô hình tăng trưởng thì kinh tế số là một trong những giải pháp quan trọng.
Kinh tế số trong giai đoạn hiện nay bình quân trên thế giới chiếm khoảng 15% GDP, còn ở Việt Nam khiêm tốn hơn, chiếm khoảng 10% GDP. Điều này cho thấy rằng, chúng ta còn dư địa rất lớn cho phát triển kinh tế số. Đây cũng là nền tảng tương đồng xuất phát điểm như nhiều quốc gia khác, từ đó có thể đẩy mạnh phát triển kinh tế số và tăng cường cạnh tranh quốc gia. Kinh tế số có rất nhiều nội dung, trong đó quan trọng nhất chính là giúp nước ta tái cơ cấu và có ngành nghề mới. Ngoài ra, chúng ta có thể chọn được một số khâu đột phá để bứt phá lên so với các quốc gia khác có mức độ cạnh tranh tương đương với Việt Nam.
Trong bối cảnh dịch bệnh Covid-19 diễn biến phức tạp như hiện nay, vấn đề đầu tư và tăng cường về công nghệ thông tin không hẳn là vấn đề khó khăn nhất. Vấn đề khó nhất là những đột phá, thay đổi lớn về thể chế. Đây là điểm nhấn cần được quan tâm trong bối cảnh phát triển mới khi đẩy mạnh phát triển kinh tế số. Bởi kinh tế số chưa phải là giải pháp hoàn hảo nếu không có những thay đổi về thể chế, chính sách, những quy định cho phù hợp.
Do vậy, đây là cơ hội tốt nhất để chúng ta tập trung vừa phát triển kinh tế số, vừa đẩy mạnh cải cách thể chế. Đây cũng là căn cứ giúp tăng năng lực cạnh trạnh, tao hiệu quả cho các ngành nghề phát triển mới nhằm đạt mục tiêu phục hồi và phát triển bền vững.
Về cơ hội của Việt Nam khi triển khai các giải pháp phục hồi và phát triển kinh tế, đặc biệt với sự xuất hiện của biến chủng mới Omicron, ông Francois Painchaud – Trưởng đại diện Quỹ Tiền tệ Quốc tế (IMF) tại Việt Nam cho rằng, cần phải đảm bảo ổn định vĩ mô về cả tài khóa cũng như tiền tệ. Đó là điều quan trọng nhất trong thời điểm này.
Theo ông Francois Painchaud, từ kinh nghiệm ứng phó dịch Covid-19, Việt Nam đã rút ra bài học đẩy mạnh đầu tư cho y tế, an sinh xã hội, tiến hành các chương trình hỗ trợ người lao động khu vực phi chính thức. Các chương trình này cần được đẩy mạnh nhân rộng, tiến hành kịp thời hơn, quyết liệt hơn và làm cho dễ tiếp cận hơn nữa. Trong tương lai, có thể Việt Nam sẽ còn gặp những thách thức mới, vậy nên cần có cơ chế để ứng phó với những khó khăn này.
Về cơ hội, Việt Nam có cơ hội lớn để hỗ trợ phục hồi kinh tế, cần đầu tư dài hạn vào chuyển đổi nền kinh tế, cải thiện kỹ năng, nâng cao kết nối, số hóa, xây dựng Chính phủ điện tử để Chính phủ hoạt động hiệu quả hơn, năng suất hơn. Có sự thay đổi rất lớn trong chuỗi giá trị toàn cầu, tạo ra nhiều thách thức cũng như các cơ hội, lợi ích cho Việt Nam.
Hiện nay, Việt Nam tham gia chuỗi giá trị toàn cầu ở mức ngang tầm với các nước trong khu vực, cần phải tham gia các công đoạn thêm giá trị gia tăng, đẩy mạnh hiệu quả thể chế, cải thiện môi trường kinh doanh, tăng cường cải thiện hiệu suất lao động ở cả khối doanh nghiệp nhà nước và doanh nghiệp tư nhân. Việt Nam đã có nền tảng để cải cách cơ cấu, hiện này là thời điểm phù hợp để triển khai một cách khẩn trương hơn nữa.
Y tế và sức khoẻ là giải pháp quan trọng nhất
Ông Andrew Jeffries, Giám đốc ngân hàng phát triển châu Á tại Việt Nam nhận định, cuộc khủng hoảng kinh tế- xã hội do tác động của đại dịch Covid-19 đã ảnh hưởng rất nhiều đến chính sách tài khóa và tiền tệ của thế giới và Việt Nam. Giải pháp về y tế và sức khỏe được coi là giải pháp quan trọng nhất.
Ở Việt Nam, chiến lược vắc-xin đã được thực hiện rất tốt. Việc tiêm chủng vắc-xin được triển khai rất nhanh. Tuy nhiên, khi thế giới xuất hiện biến chủng mới Omicron thì Việt Nam phải cần thêm vắc-xin và cần có động lực cho việc tiêm vắc-xin. Bên cạnh đó, Việt Nam cũng đẩy mạnh sản xuất và nhận chuyển giao công nghệ vắc-xin mới, đảm bảo về y tế và sức khỏe cho người dân. Tư duy này là cơ hội tốt cho Việt Nam trong các giải pháp phục hồi kinh tế.
Bên cạnh đó, Việt nam cũng quản lý nợ công cẩn trọng và chặt chẽ, mở rộng về tài khóa. Có nhiều dư địa cho việc thuyết phục vay vốn và phục hồi. Để phục hồi cần có nhiều gói kích cầu và kích thích nền kinh tế trong ngắn hạn, cùng với đó là việc cải cách thuế, chi tiêu ngân sách, huy động nguồn lực. Đồng thời, các Ngân hàng tham gia rất nhiều vào cơ sở hạ tầng của khu vực, trong khi đó nhu cầu của Việt Nam rất lớn. Đầu tư công và cơ sở hạ tầng là xương sống của nền kinh tế.
Ông Andrew Jeffries đặt câu hỏi: Vậy làm thế nào để tạo nguồn lợi về kinh tế cho các địa phương, cho cả nước? Làm thế nào để đưa ra những lợi nhuận về tài chính cho nhà đầu tư và người dân? Đó là những vấn đề cần phải quan tâm.
Bên cạnh đó, trong hợp tác khu vực, cần tiếp tục có những nguồn cung vắc-xin và gia tăng kết nối du lịch. Điều này sẽ cần sự phối hợp chặt chẽ giữa các quốc gia và Việt Nam; sự phối hợp chặt chẽ giữa các nước ASEAN.
Ngoài ra, chuyển đổi số là lĩnh vực rất quan trọng trong phục hồi sau đại dịch. Do đó, cần cơ sở hạ tầng để vụ cho chuyển đổi số; có giải pháp quan trọng để thu hút được đầu tư trong lĩnh vực này; bổ trợ về đầu tư, đào tạo nghề, đào tạo kỹ thuật cho người lao động trong doanh nghiệp nhỏ, doanh nghiệp cấp địa phương. Tất cả những nỗ lực này trong thời gian dài sẽ đóng vai trò tiếp tục nâng cao phát triển kinh tế Việt Nam.
Đánh giá sức hấp thụ của các chính sách hỗ trợ
Phát biểu thảo luận tại Diễn đàn, ĐBQH Hoàng Văn Cường (Đoàn Tp. Hà Nội, Phó Hiệu trưởng Trường Đại học Kinh tế Quốc dân) cho rằng, bên cạnh việc tăng cường nguồn lực để phục hồi và phát triển kinh tế, chúng ta cần đánh giá được sức hấp thụ của các chính sách hỗ trợ này ra sao, để đảm bảo hiệu quả, tránh thất thoát.
Theo đại biểu Quốc hội Hoàng Văn Cường, hiện tại, tiêu chí để đánh giá, xác định hiệu quả của việc hấp thụ nguồn vốn hỗ trợ cho các doanh nghiệp đều rất chậm. Cụ thể, tốc độ chuyển vốn vào các hoạt động đầu tư phát triển, tốc độ giải ngân vốn đầu tư công, tốc độ tăng trưởng tín dụng đều chậm. Điều này chứng tỏ sức hấp thụ nguồn vốn hỗ trợ của nền kinh tế đang có vấn đề. Đại biểu băn khoăn dòng vốn hỗ trợ có đang thực sự đi vào các hoạt động sản xuất kinh doanh hay không; giá trị và hiệu quả kinh tế tạo ra so với đồng vốn chuyển vào đầu tư như thế nào…
Đại biểu Hoàng Văn Cường cũng cho rằng, những chính sách hỗ trợ phục hồi và phát triển kinh tế nước ta trong thời gian tới cần phải làm rõ và giải quyết được vấn đề này; đảm bảo giải ngân vốn đầu tư công nhanh hơn, đưa ra những giải pháp đặc biệt về giải ngân vốn đầu tư công, thậm chí đặt hàng đơn vị tư nhân giải ngân vốn đầu tư công làm sao đảm bảo tiến độ giải ngân nhanh và hiệu quả; ngân hàng cần đồng hành với doanh nghiệp, vốn tín dụng hỗ trợ phải đảm bảo chảy vào đúng hoạt động sản xuất của doanh nghiệp; kiểm soát chặt chẽ dòng tiền vào các lĩnh vực mong muốn đầu tư; thay đổi phương thức tiếp cận vốn cho các doanh nghiệp…