Theo số liệu thống kê do Bộ Nội vụ Nhật Bản công bố ngày 9/8, dân số nước này tính đến ngày 1/1/2022 là 125,93 triệu người, giảm 726.342 người so với một năm trước đó (tương đương 0,57%).
Đây là mức giảm lớn nhất cả về con số tổng thể lẫn theo tỉ lệ phần trăm, kể từ khi các dữ liệu có thể được so sánh từ năm 2013, do số trường hợp tử vong nhiều hơn số sinh, trong khi các biện pháp hạn chế biên giới nhằm chống dịch Covid-19 khiến lượng cư dân ngoại quốc tại nước này duy trì ở mức thấp.
Toàn bộ 47 tỉnh và thành phố của Nhật Bản, ngoại trừ Okinawa, đều ghi nhận dân số giảm trong giai đoạn thống kê nói trên. Trong đó, Thủ đô Tokyo, các tỉnh Saitama, Chiba và Kanagawa lần đầu ghi nhận dân số giảm kể từ năm 2013, do dịch Covid-19 bùng phát đã khiến dòng người đổ về các khu vực thành phố trung tâm giảm.
Chính phủ Nhật Bản đang tìm cách tăng tỉ lệ sinh trong khi khuyến khích người dân chuyển về sống ở các khu vực ngoài Thủ đô Tokyo nhằm hồi sinh các cộng đồng địa phương. Tuy nhiên, các biện pháp do chính phủ áp dụng chưa phát huy hiệu quả, khi dân số Nhật Bản đã duy trì xu hướng giảm trong năm thứ 13 liên tiếp.
Nhật Bản ghi nhận số ca tử vong ở mức cao nhất mọi thời đại là khoảng 1,44 triệu người và số ca sinh ở mức thấp kỷ lục, khoảng 810.000 người.
Người nước ngoài cư trú tại quốc gia này cũng giảm 107.202 xuống còn 2.704.341 người, đánh dấu năm thứ 2 liên tiếp ghi nhận xu hướng giảm, do các biện pháp hạn chế và kiểm soát biên giới nghiêm ngặt hơn được áp dụng để ngăn chặn dịch Covid-19 lây lan.
Tokyo ghi nhận mức dân số giảm lớn nhất trên cả nước, với 48.592 người. Thành phố này ghi nhận tình trạng giảm dân số lần đầu từ năm 2013.
Trong khi đó, các tỉnh Akita, Aomori và Yamagata ở Đông Bắc Nhật Bản có tỉ lệ giảm dân số cao nhất, lần lượt là 1,52%, 1,35% và 1,25%. Okinawa là địa phương duy nhất ghi nhận dân số tăng, với 186 người, do tỉ lệ sinh tương đối cao.
Những người từ 65 tuổi trở lên - độ tuổi nghỉ hưu - chiếm 29% toàn bộ dân số, tăng 0,27% so với một năm trước đó và là mức cao nhất kể từ khi dữ liệu được thống kê lần đầu vào năm 1994. Trong khi đó, tỉ lệ dân số từ 15-64 tuổi, được coi là độ tuổi lao động, chiếm 58,99%, giảm 0,10% so với năm trước đó và là mức thấp kỷ lục.
Thực trạng dân số giảm và bị già hóa khiến Nhật Bản phải dựa vào nguồn lao động nước ngoài. Một nghiên cứu công bố hồi tháng 2 năm nay cho biết, nước này cần tới 6,74 triệu lao động nhập cư vào năm 2040, tức gấp gần 4 lần hiện nay, mới đạt được mục tiêu tăng trưởng kinh tế của chính phủ. Nghiên cứu trên do Cơ quan Hợp tác quốc tế Nhật Bản (JICA), Viện Quản lý giá trị thuộc Tập đoàn Ngân hàng Phát triển Nhật Bản và một số đơn vị khác thực hiện.
Dựa trên kịch bản tăng trưởng kinh tế của chính phủ, nhóm nghiên cứu tính toán rằng Nhật Bản đặt mục tiêu GDP vào năm 2040 là 704.000 tỷ yen (tức 6.000 tỷ USD), tăng 36% so với mức của năm 2015.
Với mục tiêu này, Nhật Bản cần khoảng 4,19 triệu lao động nước ngoài vào năm 2030 và 6,74 triệu người vào năm 2040, tức sẽ lần lượt thiếu 630.000 người và 420.000 người tại 2 mốc thời gian trên nếu chính phủ giữ nguyên mức nhận lao động nước ngoài hiện tại.
Theo Bộ Y tế, Lao động và Phúc lợi, có hơn 1,7 triệu lao động nước ngoài ở Nhật Bản (tính tới cuối tháng 10/2021). Sau khi nghiên cứu về nhân khẩu học và tỉ lệ tăng trưởng kinh tế, nhóm nghiên cứu trên nêu ra 13 nước châu Á có thể là nguồn lao động nước ngoài cho Nhật Bản, bao gồm Trung Quốc và Việt Nam.
Minh Hoa (t/h theo Vietnam+, Người Lao Động)