Gợi ý Đáp án đề thi môn Ngữ văn kỳ thi tuyển sinh lớp 10 THPT không chuyên ở Hà Nội:
Phần I.
1.
“Đồng chí” sáng tác đầu năm 1948.
Tác phẩm được in trong tập thơ “Đầu súng trăng treo”.
2.
a. Yêu cầu về hình thức:
- Đoạn văn (12 câu).
- Đoạn văn theo phép lập luận tổng hợp – phân tích – tổng hợp (tổng – phân – hợp)
- Đoạn văn có sử dụng phép lặp để liên kết câu và câu ghép (có gạch dưới, chú thích rõ từ ngữ dùng làm phép lặp và một câu ghép)
b. Yêu cầu về nội dung: Phân tích cơ sở hình thành tình đồng chí của những người lính cách mạng trong 7 dòng đầu bài thơ “Đồng chí” – Chính Hữu.
Đoạn văn đảm bảo các ý sau:
* Giới thiệu khái quát về tác giả và hoàn cảnh ra đời bài thơ và bảy câu thơ đầu: Chính Hữu là nhà thơ – chiến sĩ, trực tiếp tham gia kháng chiến chống Pháp nên viết rất chân thật, cảm động về những hiện thực và tình cảm người lính; trong đó bảy câu thơ đầu của bài thơ đã nêu lên cơ sở hình thành tình đồng chí của những người lính cách mạng.
* Phân tích:
- Cơ sở thứ nhất của tình đồng chí là chung hoàn cảnh xuất thân:
+ Hai dòng thơ đầu đối nhau rất chỉnh: “Quê hương” đối với “làng tôi”, “nước mặn đồng chua” đối với “Đất cày lên sỏi đá”.
+ “Nước mặn đồng chua” là vùng đất ven biển nhiễm phèn, “đất cày lên sỏi đá” là vùng đồi núi trung du đất bị đá ong hóa.
=> Qua đó, ta thấy được cơ sở đầu tiên của tình đồng chí đó là cùng cảnh ngộ, xuất thân nghèo khó, họ đều là những người nông dân nghèo mặc áo lính – có sự đồng cảm giai cấp.
- Cơ sở thứ hai của tình đồng chí là chung nhiệm vụ, lí tưởng:
+ Vì quê hương, đất nước, tự bốn phương trời xa lạ cùng về đứng trong hàng ngũ cách mạng, cùng chung một chiến hào.
+ Với hình ảnh “súng”, “đầu” vừa thực vừa tượng trưng cho nhiệm vụ, lí tưởng; đồng thời kết hợp với điệp từ “bên” đã khẳng định giờ đây, anh và tôi đã có sự gắn kết trọng vẹn về lí trí, lí tưởng và mục đích cao cả. Đó là cùng chiến đấu giành độc lập cho tổ quốc.
- Cơ sở thứ ba của tình đồng chí là chung gian khó: Tình đồng chí còn được nảy nở rồi gắn bó bền chặt khi họ cùng chia vui sẽ buồn, đồng cam cộng khổ.
+ Hình ảnh “đêm rét chung chăn” rất giản dị mà vô cùng gợi cảm, chỉ một từ “chung” duy nhất cho ta thấy được nhiều điều: “Chung gian khó, chung khắc nghiệt, chung thiếu thốn và đặc biệt là chung hơi ấm để vượt qua khó khăn, để họ trở thành tri kỉ.
+ Câu thơ đầy ắp kỉ niệm và ấm áp tình đồng chí, đồng đội.
- Chính Hữu thật tài tình khi tình đồng chí được thể hiện ngay trong cách sắp xếp trật tự từ “anh”, “tôi”: từ chỗ đứng tách riêng trên hai dòng thơ rồi cùng song hành trong dòng thơ thứ ba, và rồi không còn phân biệt từng cá nhân nữa. Từ chỗ là “đôi người xa lạ”, họ đã “quen nhau”, đứng cùng nhau trong cùng một hàng ngũ, nhận ra nhau là “đôi tri kỉ” để rồi vỡ òa trong một thứ cảm xúc mới mẻ, thiêng liêng “đồng chí”.
- Câu thứ thứ bảy “Đồng chí!” là câu đặc biệt, cảm thán, câu thơ tuy chỉ có hai từ nhưng đã trở thành bản lề gắn kết cả bài thơ. Hai tiếng “đồng chí” đứng tách riêng thành một dòng thơ đặc biệt như một kết luận, một phát hiện, một điểm nhấn về một thứ tình cảm mới mẻ, thiêng liêng, vô cùng cao đẹp – tình đồng chí. Đến đây, ta hiểu rằng đồng cảnh, đồng ngũ, đồng nhiệm, đồng cảm sẽ trở thành đồng chí. Đồng chí – chính là sự kết tinh giữa tình bạn và tình người.
=> Cơ sở của tình đồng chí được Chính Hữu lí giải bằng một chữ “đồng”, tạo ra sự càng ngày xích lại gần nhau của hai con người, hai trái tim. Đó là quá trình từ đồng cảnh đến đồng ngũ, đồng cảm đến đồng tình và đỉnh cao là đồng chí. Từ xa lạ, đến quen nhau, để thành tri kỉ. Khi đồng chí gắn với tri kỉ thì đồng chí không còn là khái niệm chính trị khô khan nữa mà chứa chan bao cảm xúc.
* Nhận xét: Như vậy, chỉ với bảy câu thơ – Chính Hữu đã nêu lên cơ sở của tình đồng chí – tình cảm cao quý, thiêng liêng, sức mạnh tinh thần để người lính vượt qua mọi gian khổ để quyết tâm chiến đấu và chiến thắng.
3.
Hình ảnh cuối bài thơ “Đứng cạnh bên nhau chờ giặc tới” cho thấy vẻ đẹp của anh bộ đội cụ Hồ:
Tư thế chiến đấu hiên ngang, chủ động, mạnh mẽ và hết sức dũng cảm của người lính.
Tư thế đó còn cho thấy sự gắn bó keo sơn của người đồng chí, họ tạo ra tư thế thành đồng vách sắt, sẵn sàng “chờ giặc tới”.
Qua đó còn cho thấy tinh thần yêu nước, sẵn sàng hi sinh để bảo vệ độc lập, tự do của tổ quốc của người lính.
=> Chỉ với một câu thơ nhưng Chính Hữu đã tạc nên một bức tranh chân dung đẹp đẽ về ý chí kiên cường, sự dũng cảm và tinh thần yêu nước nồng nàn của họ.
Phần II.
1.
Xten-mét-xơ cho rằng “vạch một đường thẳng” có giá 1 đôla nhưng “tìm ra chỗ vạch đúng đường ấy” lại có giá 9999 đôla vì:
- Khẳng định lời của chuyên gia Xten-mét-xơ hết sức ngắn gọn, mỗi từ ngữ đều có dụng ý sâu sắc.
- Giải thích:
- “vạch một đường thẳng” có giá 1 đôla:
+ Vạch một đường thẳng thì vô cùng dễ dàng, ai cũng có thể làm được
+ Giá trị bạn nhận được phù hợp với tri thức bạn có.
-“tìm ra chỗ vạch đúng đường ấy” lại có giá 9999 đôla:
+ Nhưng phải tìm ra chỗ vạch đúng đường thì mới có giá trị.
+ Người có tri thức sẽ làm được những việc mà nhiều người không làm được.
+ Tri thức giúp con người tạo ra được nhiều loại sức mạnh phi thường.
+ Tri thức nâng cao giá trị con người.
2.
a. Yêu cầu về hình thức:
- Trình bày suy trinh trong khoảng ⅔ trang giấy thi.
- Không mắc các lỗi về dùng từ, ngữ pháp, chính tả.
b. Yêu cầu về nội dung: Tri thức làm nên giá trị con người.
Đoạn văn đảm bảo các ý sau:
* Giới thiệu, dẫn dắt vào đề.
- Nêu luận đề: Phải chăng tri thức làm nên giá trị con người?
* Giải thích:
- Tri thức: Là những hiểu biết của con người về mọi lĩnh vực trong đời sống được tích lũy qua quá trình học hỏi, rèn luyện, lao động.
- Giá trị con người: Là ý nghĩa của sự tồn tại mỗi con người, là nội lực riêng trong mỗi con người. Đó là yếu tố để mỗi người khẳng định được vị trí trong cuộc đời.
=> Những hiểu biết của con người ở mọi lĩnh vực trong cuộc sống sẽ giúp con người khẳng định được vị trí của mình trong cuộc đời.
* Bàn luận
- Vì sao có thể nói tri thức làm nên giá trị con người:
+ Giá trị con người không phải chỉ được xác định bằng hình thức bên ngoài mà quan trọng hơn là được xem xét từ tính cách, tâm hồn, những ứng xử của chúng ta với người khác và để có được những điều đó thì phải tích lũy bằng sự hiểu biết, tri thức.
+ “Tri thức là sức mạnh. Ai có tri thức thì người đó có được sức mạnh”. (Lê-nin)
- Biểu hiện của tri thức làm nên giá trị con người:
+ Có tri thức, bản thân mỗi người sẽ biết làm thế nào cho hợp lí với mọi tình huống trong cuộc sống, tự nâng cao khả năng giao tiếp, cải thiện các mối quan hệ.
+ Có tri thức, mỗi người sẽ bản lĩnh hơn trước những tính huống không mong muốn xảy ra, từ đó bản lĩnh, tự tin tìm cách giải quyết.
+ Biết tri thức làm nên giá trị sống, phong cách sống, mỗi người sẽ không ngừng tích lũy tri thức dày thêm để tự phát triển và hoàn thiện chính mình.
+ ….
Muốn có được sức mạnh của tri thức con người cần không ngừng học tập, tích lũy kiến thức và vận dụng những điều đã học vào thực tiễn cuộc sống.
Trong quá trình làm, học sinh lấy dẫn chứng phù hợp.
* Phản đề - mở rộng:
+ Tri thức tạo nên giá trị con người nhưng có những người nhởn nhơ, bỏ phí thời gian tích lũy tri thức vào những việc vô bổ, để cuộc đời trôi qua hoài phí.
+ Có những người biết tích lũy thêm hiểu biết nhưng lại sử dụng nó vào việc hủy diệt, làm hại đồng loại, trục lợi cho bản thân. Như thế, tri thức chỉ thật sự tạo nên giá trị tốt đẹp khi được vận dụng để làm những điều có ích cho cộng đồng.
- Liên hệ bản thân: Bản thân em đã tích lũy tri thức để không ngừng nâng cao giá trị của chính mình.
Đáp án đề thi môn Ngữ văn kỳ thi tuyển sinh lớp 10 THPT không chuyên ở Hà Nội mag tính tham khảo
Theo lịch thi đã được công bố, kỳ thi tuyển sinh lớp 10 THPT không chuyên ở Hà Nội năm học 2021-2022 diễn ra vào hai buổi sáng 12 và 13/6/2021 tại 184 điểm thi, với bốn môn: Ngữ văn, Toán, Ngoại ngữ và Lịch sử.
Cụ thể, sáng 12/6, các học sinh làm bài thi môn Ngữ văn (trong 90 phút, từ 8h30 đến 10h), Ngoại ngữ (trong 45 phút, từ 10h30 đến 11h15).
Sáng 13/6, học sinh thi Toán (trong 90 phút, từ 8h30 đến 10h), Lịch sử (trong 45 phút, từ 10h30 đến 11h15).
Do giảm thời gian làm bài nên mức độ yêu cầu về kiến thức và kỹ năng của đề thi được tinh giảm phù hợp với thời gian thi.
Cụ thể, số lượng câu hỏi trắc nghiệm khách quan trong đề thi môn Ngoại ngữ (không chuyên) và môn Lịch sử (không chuyên) là 30 câu/đề thi (giảm bớt 10 câu/đề thi so với kế hoạch trước), giảm bớt một số câu ở từng phần trong cấu trúc đề thi, nhưng vẫn đảm bảo sự phân hóa của đề để lựa chọn được những thí sinh có đủ năng lực theo yêu cầu của công tác tuyển sinh.
Vì dịch Covid-19, lần đầu tiên các thí sinh tham dự kỳ thi tuyển sinh lớp 10 Hà Nội làm thủ tục dự thi, đính chính thông tin sai sót (nếu có) bằng hình thức online; đồng thời thay đổi lịch thi và thời gian thực hiện mỗi bài thi.
Theo báo cáo của Sở GD&ĐT Hà Nội, tổng số học sinh đăng ký kỳ thi vào lớp 10 THPT, năm học 2021-2022, là 93.363 em, với 3.988 phòng thi, đặt tại 184 điểm thi trên địa bàn 30 quận, huyện, thị xã. Số học sinh thi chuyên là 9.935 em với 436 phòng thi, đặt tại 17 điểm thi. Sở đã điều động 14.484 cán bộ, giáo viên, nhân viên tham gia coi thi; 2.335 cán bộ, giáo viên, nhân viên tham gia công tác chấm thi.
Thống kê của Sở GD&ĐT, toàn thành phố có 14 học sinh khối 9 thuộc diện F1, 5 em thuộc diện F2 và 16 em trong khu vực phong tỏa.
Quốc Tiệp