Sáng 5/11, Quốc hội thảo luận tại hội trường hội trường về tình hình thực hiện ngân sách Nhà nước năm 2024, dự toán ngân sách Nhà nước, phương án phân bổ ngân sách Trung ương năm 2025.
Số dư Quỹ BHXH cuối năm 2024 hơn 1,2 triệu tỷ đồng
Tham gia thảo luận, đại biểu Hà Sỹ Đồng (đoàn Quảng Trị) nhắc đến các quỹ tài chính Nhà nước ngoài ngân sách chưa được quan tâm thấu đáo.
Ông Đồng cho biết, đối với định chế Bảo hiểm xã hội Việt Nam, theo báo cáo 647 ngày 15/10/2024 của Chính phủ, tổng số dư đầu năm 2024 của các quỹ tài chính nhà nước ngoài ngân sách do Trung ương quản lý chủ yếu là của 3 quỹ: Quỹ Bảo hiểm xã hội, Quỹ Bảo hiểm thất nghiệp và Quỹ Bảo hiểm y tế do Bảo hiểm Xã hội Việt Nam quản lý, chiếm gần 91% tổng số dư các quỹ.
Ứớc tính đến cuối năm nay, số dư nguồn các quỹ tăng khoảng 56.000 tỷ đồng so với đầu năm. Trong đó số dư của 3 quỹ do Bảo hiểm Xã hội Việt Nam quản lý chiếm gần như tuyệt đối trên 91% tổng số dư các quỹ - tương đương khoảng 1,3 triệu tỷ đồng.
Riêng đối với Bảo hiểm Xã hội Việt Nam, tổng thu trong năm 2024 ước đạt 410.000 tỷ đồng, bao gồm cả ngân sách Nhà nước chuyển vào. Tổng chi khoảng 352.000 tỷ đồng, chênh lệch thu chi khoảng 58.000 tỷ đồng.
Số dư quỹ cuối năm 2024 dự kiến hơn 1,2 triệu tỷ đồng, tăng gần 5% so với cuối năm 2023, trong đó chủ yếu được sử dụng để đầu tư vào trái phiếu Chính phủ.
"Vấn đề là cơ cấu và chất lượng sử dụng vốn của khối nguồn vốn gần 1,3 triệu tỷ đồng trên thế nào, khả năng bảo toàn và sinh lời của chúng ra sao? Theo đó là sứ mệnh bảo đảm an sinh xã hội của cơ quan bảo hiểm xã hội có hoàn thành không? Báo cáo của Chính phủ cũng chưa làm rõ điều này, kể cả các vấn đề đại biểu khác đề cập, như tình hình giải quyết nợ đọng bảo hiểm xã hội hiện nay?", đại biểu Hà Sỹ Đồng nêu loạt câu hỏi.
Đại biểu Hà Sỹ Đồng cho biết, theo các chuyên gia, chiếm hầu hết trong cơ cấu sử dụng vốn của Bảo hiểm Xã hội là khoản mục tài sản trái phiếu Chính phủ Việt Nam. Trong khi có rủi ro thanh khoản và rủi ro thị trường nhưng chưa từng được các cơ quan phụ trách, cũng như chính bản thân cơ quan Bảo hiểm Xã hội nhận diện, đo lường và công bố.
Tất nhiên xét về khía cạnh nhiệm vụ chính trị, có vẻ như Bảo hiểm Xã hội Việt Nam đã tròn vai. Và một trong những hệ lụy của cung cách đầu tư vốn của bảo hiểm xã hội xưa và nay làm méo mó thị trường trái phiếu Chính phủ, làm giá cả trên thị trường này không phản ánh đúng tương quan cung - cầu thực về trái phiếu.
"Nói theo giới chuyên môn, đường cong lãi suất trái phiếu Chính phủ chưa bao giờ được coi là chuẩn để các thị trường vốn, tiền tệ thế giới tham chiếu", ông Đồng nói thêm.
Số dư tiền gửi Kho bạc Nhà nước tăng nhanh sau dịch Covid
Liên quan đến việc điều hành tồn dư tiền gửi kho bạc Nhà nước, đại biểu Hà Sỹ Đồng cho biết, nhờ quyết tâm chính trị, từ năm 2017 Bộ Tài chính chuyển dần theo lộ trình lượng tiền tồn dư của Kho bạc Nhà nước gửi tại hệ thống ngân hàng thương mại về Ngân hàng Nhà nước nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho Ngân hàng Nhà nước trong việc điều hành chính sách tiền tệ của quốc gia.
"Tuy nhiên, trên thực tiễn quá trình triển khai diễn ra chưa thực sự được suôn sẻ, thể hiện ở việc kho bạc nhà nước tiến hành đấu thầu tiền gửi trở lại ở các ngân hàng thương mại mà có những lúc không phù hợp về thời điểm, về liều lượng, kỳ hạn, hay mức lãi suất chào", ông Đồng nói.
Theo vị đại biểu, những việc như vậy nhiều khi đã khiến cho Ngân hàng Nhà nước bị động và gặp khó khăn trong công tác điều tiết cung tiền cho hệ thống ngân hàng và nền kinh tế, nhằm hướng tới mục tiêu ổn định tiền tệ và hoạt động của ngân hàng.
Lý do chính, theo ông Đồng là nằm ở sự xung đột giữa mục tiêu phối hợp tốt chính sách tài khóa và chính sách tiền tệ nhằm điều hành kinh tế vĩ mô với mục tiêu bảo toàn và tối đa hóa lợi ích chi phí nguồn ngân quỹ Nhà nước.
"Sự xung đột mục tiêu hay xung đột lợi ích này sẽ càng lớn, càng phức tạp và càng gây ra nhiều hệ lụy khi lượng tồn dư ngân quỹ quốc gia đang có xu hướng ngày càng phình to", ông Đồng nêu.
Ông cũng lưu ý, số dư tiền gửi Kho bạc Nhà nước bình quân tại hệ thống ngân hàng giai đoạn 2017-2019 chỉ khoảng 300.000 tỷ đồng - 500.000 tỷ đồng, thì sang giai đoạn hậu Covid-19 đã tăng lên nhanh, có lúc xấp xỉ 1 triệu tỷ đồng.
Đại biểu cho rằng, sự tồn dư ngân quỹ lớn chủ yếu do công tác giải ngân vốn đầu tư phát triển thuộc ngân sách Nhà nước bị trì trệ những năm qua, trong khi công tác cân đối giữa huy động vốn và sử dụng vốn chưa thực sự tối ưu, còn bị động lớn do phụ thuộc vào nhiều cấp ngành khác.
Do đó, đại biểu đề nghị Quốc hội, Chính phủ sớm rà soát lại những quy định và tháo gỡ những các điểm nghẽn hiện nay một cách tốt nhất.