Vô sinh là một trong những vấn đề được y học và xã hội quan tâm hàng đầu bởi tỉ lệ vô sinh ngày càng gia tăng. Tỉ lệ vô sinh của vợ chồng tuổi sinh đẻ tại Việt Nam là 7,7%, trong đó khoảng 50% dưới 30 tuổi. Có nhiều nguyên nhân ở cả nam và nữ có thể gây ra vô sinh, trong đó ung thư tử cung là một trong những nguyên nhân gây vô sinh phổ biến hiện nay.
Khối u ác tính ở thân tử cung gồm nhiều bệnh lý khác nhau, hay gặp nhất là ung thư niêm mạc tử cung với ung thư biểu mô tuyến chiếm 70-80%, ung thư biểu mô tuyến-vảy với 10-20%, hoặc adenoacanthoma (khoảng 5%). Các tổn thương ác tính khác hiếm gặp hơn như ung thư tế bào sáng, ung thư thanh mạc dạng nhú, ung thư dạng nhảy… ung thư cổ tử cung chỉ chiếm khoảng 2-3%.
Ung thư niêm mạc tử cung hiện nay khá phổ biến nhưng phần lớn chị em không biết nguyên nhân của bệnh bắt nguồn từ đâu và những ai có nguy cơ cao.
1. Ung thư niêm mạc tử cung là gì?
Lớp niêm mạc của tử cung (nội mạc tử cung) của bạn giống như một chiếc giường - nơi mà bào thai sẽ được nuôi nấng và an toàn ở đó. Nhưng khi có quá nhiều các tế bào sinh sôi và phát triển thì bạn sẽ phải đối mặt với căn bệnh viêm nội mạc tử cung, căn bệnh xảy ra ở hơn 600 ngàn phụ nữ Mỹ mỗi năm.
Ung thư niêm mạc tử cung là khối u ác tính phát sinh tại tuyến nội mạc tử cung, là một trong những u ác tính ở cơ quan sinh dục nữ, chiếm 7% tổng số ung thư ở nữ giới, chiếm 20-30% u sinh dục ác tính. Ung thư nội mạc tử cung có thể xảy ra ở bất kỳ độ tuổi nào, tỉ lệ phát bệnh cao ở khoảng 59-61 tuổi, khoảng 50-70% phụ nữ mắc bệnh sau khi mãn kinh.
2. Nguyên nhân dẫn tới ung thư niêm mạc tử cung
Hiện tại, khoa học vẫn chưa biết chính xác nguyên nhân của ung thư niêm mạc tử cung. Các yếu tố nguy cơ của ung thư nội niêm mạc tử cung gồm:
• Điều trị nội tiết tố thay thế trong đó vai trò của estrogen được xếp hàng đầu. Các bệnh nhân được điều trị bằng phương pháp này với liều cao trong một thời gian dài sẽ tăng nguy cơ mắc ung thư niêm mạc tử cung. Rụng trứng không đều, dậy thì sớm, mãn kinh muộn, vô sinh tăng nguy cơ nhẹ.
Ung thư niêm mạc tử cung liên quan trực tiếp và tỉ lệ thuận với sự tăng nồng độ estrogen nội sinh cũng như ngoại sinh, cùng với thời gian kích thích kéo dài.
Tỉ lệ ung thư niêm mạc tử cung cao gấp 4 tới 8 lần ở những phụ nữ mãn kinh có sử dụng estrogen thay thế và trong hội chứng buồng trứng đa nang.
• Tuổi tác: Thường là ở những phụ nữ trên 50 tuổi.
Tuổi trung bình của phụ nữ bị ung thư là từ 50-70 tuổi, khoảng <5% các trường hợp ung thư niêm mạc được chẩn đoán trước 40 tuổi. Ngày trước, khi mãn kinh nếu có kinh nguyệt ra nhiều không rõ nguyên nhân thì có khoảng 10% bệnh nhân sẽ có ung thư niêm mạc tử cung về sau.
• Béo phì:
Béo phì làm tăng cường chuyển hóa Androstenedione ở tổ chức mỡ dưới da gây cường estrogen là yếu tố nguy cơ quan trọng.
• Tiền sử gia đình có người bị ung thư niêm mạc tử cung cũng có nguy cơ bị ung thư niêm mạc tử cung cao hơn.
• Các nguy cơ khác bao gồm đái đường, không có con (phụ nữ không có con có tỉ lệ mắc bệnh cao gấp 3 lần phụ nữ có nhiều con).
Ngày nay, tuổi thọ của con người ngày càng tăng, do đó ra máu âm đạo bất thường sau mãn kinh do ung thư niêm mạc tử cung cũng ngày càng nhiều. Ở tuổi 80 thì ung thư niêm mạc chiếm tới 50-60% các trường hợp ra máu bất thường.
Bác sĩ Trần Vũ Quang, bệnh viện Phụ sản Trung ương