Bệnh bạch biến là chứng rối loạn sắc tố phổ biến nhất, ảnh hưởng đến 0,5-2% dân số trên thế giới, và tỷ lệ hiện mắc là tương đương giữa nam và nữ. Mặc dù bệnh bạch biến không đe dọa đến tính mạng nhưng những ảnh hưởng của bệnh bạch biến có thể gây ra những khiếm khuyết về thể chất và tâm lý cho bệnh nhân.
Hiện nay, người ta vẫn chưa thể làm rõ cơ chế sinh bệnh chính xác của bệnh bạch biến. Nhiều cơ chế, bao gồm các bất thường về trao đổi chất, stress oxy hóa, tạo ra các chất trung gian gây viêm, tách tế bào và phản ứng tự miễn là những yếu tố góp phần sinh bệnh học. Bệnh bạch biến có thể xuất hiện ở mọi lứa tuổi và tác động đến cả hai giới tính là như nhau.
Các đặc điểm chẩn đoán lâm sàng của bệnh bạch biến là vùng da bị ảnh hưởng sẽ bị biến đổi màu sắc; bệnh đặc trưng bởi các đốm màu trắng đục, ngà hoặc phấn trắng. Những đốm hoặc đốm bị giảm sắc tố này xuất hiện trên vùng da ở của các bộ phận khác nhau trên cơ thể bao gồm mặt, bộ phận sinh dục, quầng vú và các vùng da thường dễ bị chấn thương như khuỷu tay và đầu gối. Bệnh cũng có thể phát hiện ở màng nhầy và thân lông.
Các phương pháp điều trị bạch biến hiện nay nhằm mục đích ngăn chặn sự tiến triển của bệnh và đạt được hiệu quả giảm bớt các vùng da không melanin (không sắc tố), do đó khôi phục các tế bào melanocytes (tế bào biểu bì tạo hắc tố) bị mất. Hiện nay, có nhiều phương pháp được lựa chọn để điều trị bệnh bạch biến như sử dụng thuốc Corticoid, phẫu thuật, thuốc điều hòa miễn dịch, giảm sắc tố da bình thường và quang trị liệu; mặc dù quang trị liệu vẫn là phương pháp điều trị được sử dụng phổ biến. Tuy nhiên, nhiều bệnh nhân hiện đang tìm hiểu các lựa chọn điều trị khác bao gồm các sản phẩm hoạt tính sinh học thảo dược.
Một nghiên cứu hồi cứu quan sát đa trung tâm công bố trên Tạp chí Y học Open Access Macedonian Journal of Medical Sciences, được thực hiện ở các quốc gia Ý, Ấn Độ, Việt Nam, Đức và Úc. Trong đó, có sáu mươi ba (63) bệnh nhân (gồm 30 nam và 33 nữ), tuổi từ 18 đến 58 (trung bình 34,5 tuổi) mắc bệnh bạch biến ở dạng ổn định hoặc bạch biến di chuyển (bệnh có thể lan truyền theo từng mảng từ vùng da này sang vùng da khác trên cơ thể) tham gia nghiên cứu và được theo dõi đánh giá trong 12 tuần. Số bệnh nhân này đã không điều trị bệnh trong ít nhất hai năm.
Các kết quả cho thấy rõ ràng rằng khi sử dụng Vitilinex® kết hợp với quang trị liệu có hiệu quả đáng kể hơn so với khi chỉ sử dụng Vitilinex hoặc quang trị liệu. Kết quả của liệu pháp điều trị kết hợp này cho thấy có 87% bệnh nhân có tỷ lệ tái tạo sắc tố cao hơn 50%, so với các bệnh nhân chỉ sử dụng Vitilinex® (65%) và quang trị liệu (62,5%). Liều chiếu xạ cho liệu pháp kết hợp này được duy trì ở liều khởi đầu tối thiểu. Điều này cũng rất có lợi, vì có thể giảm thiểu phơi nhiễm bức xạ tia UV, có liên quan đến các đột biến nội bào, do đó có thể gây ra biến đổi ác tính.
Trong nghiên cứu này đã xác nhận hiệu quả của quang trị liệu dải hẹp UVB trong việc điều trị bệnh bạch biến. Tuy nhiên, liệu pháp kết hợp với hoạt chất sinh học thảo dược Vitilinex® cho thấy hiệu quả hơn, sử dụng liều chiếu xạ thấp hơn bình thường, do đó làm giảm khả năng đột biến nghiêm trọng nội bào DNA. Kết quả cũng xác nhận rằng hoạt chất sinh học Vitilinex® có hiệu quả.
(Theo Open Access Macedonian Journal of Medical Sciences)
Hệ thống phòng khám chuyên khoa Dr. Michaels Psoriasis & Skin Clinic tại 81-83 Lò đúc, Hà nội và 87 Trần Não, TP. Hồ Chí Minh và áp dụng phương pháp Dr Michaels: sử dụng các loại thảo dược để điều trị bệnh vảy nến, viêm da cơ địa, bệnh bạch biến và nhiều bệnh da liễu khác. Cơ sở được áp dụng theo tiêu chuẩn, phác đồ tương tự các phòng khám chuyên khoa Dr. Michaels tại Australia, châu Âu với nguồn thảo dược được sản xuất, nhập khẩu từ Australia.
Phương pháp Dr. Michaels do Giáo sư, Tiến sĩ, Bác sĩ Michael Tirant phát triển hơn 30 năm qua và được thừa nhận rộng rãi để điều trị bệnh vảy nến, viêm da cơ địa, bệnh bạch biến và nhiều bệnh da liễu khác. Nhiều thử nghiệm lâm sàng cũng như các nghiên cứu đánh giá y học đã được công bố quốc tế tại những nước châu Âu, chứng minh giải pháp Dr. Michaels từ thảo dược đạt hiệu quả cao, an toàn và không có tác dụng phụ. Phương pháp này cũng được đánh giá là an toàn cho trẻ em và phụ nữ có thai.