Chỉ nên thực hiện gói hỗ trợ tài khóa trong 2 năm
Liệu Việt Nam còn dư địa sử dụng chính sách tài khóa và những vấn đề đặt ra cho việc kết hợp chính sách tài khóa và tiền tệ, là nội dung trong bài tham luận “Dư địa chính sách tài khóa và phối hợp chính sách tài khóa - tiền tệ nhằm hỗ trợ phát triển kinh tế - xã hội trong bối cảnh mới” của PGS.TS Vũ Sỹ Cường, Giảng viên cao cấp Học viện Tài chính tại Diễn đàn kinh tế Việt Nam 2021 diễn ra chiều ngày 5/12.
Ông Cường cho biết, Việt Nam trong vài năm gần đây ngân sách đi theo con đường, chủ trương là giảm dần khả năng huy động ngân sách, thu ngân sách để khoan sức dân theo chủ trương chung của Đảng, Chính phủ về phát triển kinh tế. Do đó, tỉ lệ thu ngân sách của chúng ta có xu hướng giảm dần.
Tiếp đó, nói về nguồn thu đạt được trong giai đoạn vừa rồi, ông Cường cho hay đóng góp rất lớn là tỉ lệ thu nội địa tăng lên rất đáng kể, có ảnh hưởng rất lớn, có vai trò rất lớn trong thay đổi chính sách tài khóa, cho phép sự ổn định nguồn thu cao hơn so với trước đây chúng ta dựa vào các nguồn thu liên quan đến xuất khẩu hoặc nguồn thu từ dầu thô. Có thể nói, nguồn thu nội địa tăng lên đó là một ưu thế, điểm tích cực để có không gian tốt hơn cho việc cải thiện chính sách.
Về chi ngân sách có thể nhìn thấy khái quát về chi ngân sách trong các năm gần đây, có thể nói trong 5 năm gần đây sự chênh lệch giữa dự toán và quyết toán ngân sách là tương đối thấp, phản ánh việc lập dự toán tốt hơn.
Tuy nhiên, theo ông Cường, chi đầu tư còn một số hạn chế nhất định, song về tổng thể ngân sách được tuân thủ, chấp hành tốt hơn trong những năm gần đây. Điều này, tạo ra thách thức trong ngân sách tài khóa. Bội chi ngân sách có hai con số thứ nhất là bội chi sơ cấp tức là bội chi chưa tính đến tỉ lệ trả nợ gốc; thứ hai bội chi tổng thể. Bội chi tăng lên rất mạnh từ 2020-2021, phản ánh Việt Nam đã có sự hỗ trợ nhất định về chính sách tài khóa trong 2 năm 2020-2021, có tác động đến ngân sách nhà nước.
“Ví dụ, trong năm 2020 số bội chi sơ cấp xấp xỉ 4%, bội chi tổng thể là 7,53% cao hơn con số trung bình của giai đoạn trước đó. Năm 2021, theo ước tính bội chi bằng 4% GDP mới tương đương với 5,4% GDP, cao hơn khoảng 2,4% so với mức trung bình của giai đoạn trước. Điều này phản ánh gói hỗ trợ chính sách tài khóa của Việt Nam đã thực hiện năm 2020-2021. Rõ ràng, dư địa tài khóa Việt Nam vẫn còn, tuy nhiên theo nghiên cứu đánh giá của chúng tôi còn nhưng phải chú ý một số điểm”, ông Cường nói.
Về điểm tích cực, trong vài năm gần đây chính sách tài khóa đã thận trọng hơn, do đó dư địa còn để hỗ trợ cho tăng trưởng và phát triển; thứ hai, nợ công dưới ngưỡng khá nhiều, lãi suất Chính phủ kỳ hạn đều tăng lên, lãi suất trung bình khoản vay thì giảm xuống. Cân đối ngân sách được đảm bảo.
Tuy nhiên, có một số thách thức đó là tính bất định. “Tôi cho rằng, tính bất định của Covid-19 rất lớn, do đó nếu sử dụng hết dư địa tài khóa thì có rủi ro, giống như chúng ta chơi bài tất tay, chúng ta là con nhà nghèo không thể chơi bài tất tay được mà phải còn một phần nào đó đề phòng bất định. Bất định là rủi ro Covid-19, theo ước tính chúng ta sẽ phải dành trung bình từ 0,8-1% tổng GDP cho các chi phí về y tế và dự phòng liên quan đến y tế trong giai đoạn từ 2-3 năm tới. Do đó, nếu sử dụng gói tài khoá quá lớn thì dư địa còn lại sẽ không nhiều cho những rủi ro bất định”.
Về vay nợ và rủi ro vay nợ, theo ông Cường số vay nợ hàng năm trong hai năm gần đây lên tới hơn 500.000 tỷ/năm, nếu vay nợ trong nước lớn thì sẽ có hiệu ứng lấn át và gây ra thách thức nhất định với chính sách tiền tệ, rất khó để giảm lãi suất, có áp lực nhất định với rủi ro thanh khoản.
Về thách thức đối với việc chấp hành chính sách trong đó quan trọng nhất là việc giải ngân đối với các khoản chi đầu tư công, hay chi hỗ trợ. Nếu áp lực quá lớn thì sẽ rất khó giải ngân trong ngắn hạn.
Tính bền vững về nguồn thu, mặc dù chi nội địa tăng lên tuy nhiên tính bền vững còn vấn đề khi nguồn thu từ đất đai vẫn chiếm tỉ lệ khá cao trung bình từ 9-10% tổng thu ngân sách Nhà nước. “Chúng tôi cho rằng, mặc dù có dư địa nhưng dư địa của chính sách tài khóa không phải quá lớn”, ông Cường nói.
Ông Cường đưa ra một tính toán để xem có thể sử dụng chính sách tài khóa bao nhiêu, ảnh hưởng đến nợ công như thế nào. “Nếu sử dụng một gói tài khóa ở mức độ vừa phải, trong hai năm nếu vào khoảng 4% chưa tính đến các chi phí y tế, còn nếu tính chi phí y tế khoảng 5,8-6%. Theo tôi, Việt Nam chỉ nên thực hiện gói hỗ trợ tài khóa vào khoảng 3,8-4% trong 2 năm”, ông Cường cho biết.
Lý do cần phối hợp giữa hai chính sách
Nói thêm về lý do phối hợp giữa chính sách tài khóa và chính sách tiền tệ, ông Cường đưa ra 4 lý do chính:
Thứ nhất, nhằm tăng tính hiệu lực của hai chính sách. Bởi, mỗi chính sách có mục tiêu, đặc điểm, kỹ thuật khác nhau nên cần có sự phối hợp.
Thứ hai, khắc phục độ trễ chính sách. Về chính sách tài khóa có độ trễ trong bao giờ cũng chậm hơn chính sách tiền tệ, chính sách tiền tệ có độ trễ ngoài (thông qua lãi suất, doanh nghiệp mới tác động được). Việc phối hợp sẽ cho phép khắc phục được hạn chế của hai chính này.
Thứ ba, tính linh hoạt của chính sách, chính sách tài khóa thuộc thẩm quyền của Quốc hội, việc điều chỉnh chính sách tài khóa sẽ khó khăn hơn. Trong khi đó, chính sách tiền tệ thì tính linh hoạt cao hơn, tức là sự tinh chỉnh dễ hơn. Do đó, cần phải có sự phối hợp của hai chính sách; cuối cùng, phối hợp để đảm bảo tính ổn định của chính sách.
“Về thay đổi cung tiền dư nợ tín dụng để nói về dư địa chính sách tiền tệ, trong giai đoạn từ 2012 đến nay chính sách tiền tệ tương đối thận trọng kể cả tốc độ tăng cung tiền, tăng dư nợ tín dụng. Vì vậy, chúng ta còn dư địa nhất định”, ông Cường cho biết.
Theo ông Cường, hiện nay lãi suất tái cấp vốn của Ngân hàng Trung ương chỉ là 4%, trong khi đó lạm phát dự kiến của năm 2021 là 2%, như vậy còn khoảng cách 2% để có thể điều chỉnh nhất định. Vì vậy, việc phối hợp giữa chính sách tài khóa tiền tệ là hết sức cần thiết, quan trọng.
Ông Cường cũng đưa ra gợi ý chính sách gồm: Việc hỗ trợ và thực hiện chính sách tài khóa cần phải cân nhắc đến tính bất định của giai đoạn tiếp theo. Do đó, chúng ta không nên có một gói hỗ trợ tài khóa quá lớn.
Thêm nữa, cần phải có sự hỗ trợ với chính sách tiền tệ trong việc thực hiện đảm bảo hài hoà giữa hai chính sách.
Đồng thời, cần phải có kế hoạch kịp thời, giải ngân chính sách tài khóa cũng như thực hiện các giải pháp hỗ trợ, thúc đẩy đầu tư công.
“Việc sử dụng chính sách tiền tệ để hỗ trợ chính sách tài khóa trong việc huy động nguồn lực cũng có thể tính đến. Để hạ lãi suất, ngoài các biện pháp về điều chỉnh lãi suất tái cấp vốn, điều chỉnh lãi suất tái chiết khấu một trong các biện pháp là phải thúc đẩy cạnh tranh của các ngân hàng, có thể sử dụng các biện pháp kỹ thuật cho phép các ngân hàng có không gian rộng hơn cho việc huy động tín dụng. Chúng tôi cho rằng, nguyên nhân chính của sụt giảm kinh tế là lý do về y tế. Do đó, các chính sách này cần được phối hợp rất chặt chẽ với các chính sách về y tế”, ông Cường nhấn mạnh.
Diễn đàn Kinh tế Việt Nam 2021 “Phục hồi và phát triển bền vững” được diễn ra ngày 5/12 tại Hà Nội với sự tham dự của Chủ tịch Quốc hội Vương Đình Huệ, lãnh đạo Ban Kinh tế Trung ương, Viện Hàn lâm Khoa học Xã hội Việt Nam, các chuyên gia, nhà quản lý và nhà khoa học uy tín.
Diễn đàn được chia thành 2 phiên. Phiên toàn thể buổi sáng là tọa đàm cấp cao với chủ đề “Một số gợi ý đối với Chương trình phục hồi và phát triển kinh tế - xã hội Việt Nam”. Phiên buổi chiều gồm 2 chuyên đề về “Phối hợp các chính sách tài khóa, tiền tệ linh hoạt, hiệu quả, tạo nguồn lực ổn định kinh tế vĩ mô, phục hồi kinh tế” và “Bảo đảm an sinh xã hội và nguồn cung lao động trong quá trình phục hồi kinh tế”.