Giá cà phê duy trì ổn định
Tại huyện Di Linh, Lâm Hà, Bảo Lộc (Lâm Đồng) giá cà phê hôm nay được thu mua với mức 127.500 đồng/kg.
Tại huyện Cư M'gar (Đắk Lắk) giá cà phê hôm nay ở mức 128.000 đồng/kg. Tại huyện Ea H'leo (Đắk Lắk), Buôn Hồ (Đắk Lắk) giá cà phê hôm nay được thu mua cùng mức 128.000 đồng/kg.
Tương tự tại tỉnh Đắk Nông, giá cà phê hôm nay thu mua ở mức 128.100 đồng/kg tại Gia Nghĩa và 128.000 đồng/kg ở Đắk R'lấp.
Tại tỉnh Gia Lai, giá cà phê hôm nay ở mức 128.000 đồng/kg (Chư Prông), ở Pleiku và La Grai cùng giá 127.900 đồng/kg.
Còn giá cà phê hôm nay tại tỉnh Kon Tum được thu mua với mức 127.900 đồng/kg.
Thị trường cà phê trong nước giảm nhẹ so với cùng thời điểm hôm qua.
Theo ghi nhận mới nhất, giá cà phê trên thị trường thế giới tăng giảm không đồng nhất. Cụ thể, giá cà phê trực tuyến Robusta tại London giao tháng 9/2024 được ghi nhận tại mức 4.629 USD/tấn, tăng 0,26%; giá cà phê Arabica giao tháng 9/2024 tại New York ở mức 246,2 UScent/pound sau khi giảm 1,03%.
Theo số liệu của Tổng cục Hải quan, khối lượng cà phê xuất khẩu của Việt Nam trong quý II vừa qua đã giảm 32,4% so với cùng kỳ năm ngoái, xuống chỉ còn 308.124 tấn. Mặc dù vậy, kim ngạch xuất khẩu mặt hàng này vẫn tăng 8,5% lên 1,26 tỷ USD nhờ giá bán tăng cao.
Tính chung trong nửa đầu năm 2024, xuất khẩu mặt hàng này đạt 893.820 tấn với giá trị kim ngạch thu về 3,19 tỷ USD, so với cùng kỳ năm ngoái giảm 11,4% về lượng nhưng kim ngạch lại tăng mạnh 33,2%.
Như vậy, kết thúc 9 tháng đầu niên vụ 2023 - 2024 (từ tháng 10/2023 đến tháng 6/2024), Việt Nam đã xuất khẩu gần 1,26 triệu tấn cà phê, tương đương 86% sản lượng vào khoảng 1,47 triệu tấn của niên vụ hiện tại và giảm hơn 11% so với cùng kỳ niên vụ trước.
Nếu không tính hàng tồn kho từ năm ngoái chuyển sang thì Việt Nam chỉ còn lại khoảng 210.000 tấn cà phê để xuất khẩu trong 4 tháng tới cho đến khi vụ thu hoạch mới diễn ra vào tháng 11 năm nay.
Trong quý II, giá xuất khẩu bình quân cà phê của Việt Nam đạt 4.103 USD/tấn, tăng 24,7% so với quý I và tăng 60,4% so với quý II/2023. Tính riêng trong tháng 6, giá mặt hàng này đạt kỷ lục 4.593 USD/tấn, tăng 7,4% so với tháng trước và tăng 71,2% (hơn 1.900 USD/tấn) so với cùng kỳ.
Giá hồ tiêu duy trì mức ổn định
Ghi nhận mới nhất, giá tiêu hôm nay duy trì ổn định, đồng loạt đi ngang so với hôm qua.
Cụ thể, Đắk Lắk vẫn thu mua hồ tiêu tại giá 150.000 đ/kg; Giá hồ tiêu Đắk Nông hôm nay neo ở mức 151.000 đ/kg;
Tương tự, giá tiêu Gia Lai hôm nay tiếp tục thu mua với mốc 150.000 đ/kg; Thương lái Đồng Nai đang giao dịch hồ tiêu tại giá 150.000 đ/kg;
Giá hồ tiêu Bà Rịa - Vũng Tàu hôm nay giữ ở mức 151.000 đ/kg; Còn thương lái Bình Phước vẫn giao dịch hồ tiêu với giá 150.000 đ/kg.
Trên thị trường thế giới, giá giao dịch tiêu đen Lampung (Indonesia) giảm 0,11%, giá thu mua tiêu đen Brazil ASTA 570 và giá tiêu đen Kuching (Malaysia) ASTA duy trì ổn định so với ngày 14/7; giá thu mua tiêu trắng Muntok giảm 0,12% và giá tiêu trắng Malaysia ASTA không có thay đổi mới.
Theo Cục Trồng trọt (Bộ NN&PTNT), từ năm 2017 đến năm 2023, diện tích hồ tiêu toàn quốc đã giảm từ 153.000 ha xuống còn 115.000 ha. Nguyên nhân là do tình trạng dư nguồn cung đẩy giá hồ tiêu xuống thấp khiến người trồng lỗ nặng nên buộc phải phá bỏ vườn trồng.
Các chuyên gia nhận định, điều này đang khiến sản lượng hồ tiêu giảm nhanh. Trong khoảng 3 - 5 năm tới, sản lượng hồ tiêu chưa thể đáp ứng đủ nhu cầu cho tiêu dùng và xuất khẩu nên giá mặt hàng này được dự báo tiếp tục tăng lên.
Quy mô thị trường hồ tiêu toàn cầu được định giá 5,43 tỷ USD, dự báo tăng trưởng trung bình hơn 20% trong giai đoạn 2024 - 2032, thông tin từ báo Điện tử Gia Lai.
Tại khu vực Đồng bằng sông Cửu Long đi ngang với cả lúa và gạo. Thị trường gạo nguồn về ít, giao dịch ổn định.
Giá lúa đi ngang, gạo giao dịch chậm
Thị trường gạo tại các địa phương trong vùng Đồng bằng sông Cửu Long hôm nay nhìn chung nguồn về ít, giao dịch chậm, chất lượng kém do mưa. Cụ thể tại Sa Đéc (Đồng Tháp), kho mua chậm, giá gạo ít biến động. Tại An Cư (Cái Bè, Tiền Giang) nguồn gạo về ít, giá ổn định, ít gạo đẹp Tại Lấp Vò (Đồng Tháp), giao dịch chậm, chất lượng gạo xấu, ít lô đẹp, kho mua vào ít.
Tại các chợ lẻ, giá gạo không có điều chỉnh. Hiện gạo Nàng Nhen có giá niêm yết cao nhất 20.000 đồng/kg; gạo Jasmine 18.000 - 20.000 đồng/kg; gạo Nàng hoa 20.000 đồng/kg; gạo tẻ thường dao động quanh mốc 15.000 - 16.000 đồng/kg; gạo thơm thái hạt dài 20.000 - 21.000 đồng/kg; gạo Hương lài 20.000 đồng/kg; gạo thơm Đài Loan 21.000 đồng/kg; gạo trắng thông dụng 17.000 đồng/kg; gạo Sóc thường 18.500 đồng/kg; gạo Sóc Thái giá 20.000 đồng/kg; gạo Nhật giá 22.000 đồng/kg.
Với mặt hàng lúa, ghi nhận tại các địa phương giao dịch lúa mới chậm do mua, nhiều nơi ngưng mua, nông dân chào giá vững, giá lúa ít biến động.
Cụ thể, giá lúa IR 50404 dao động quanh mốc 6.700 - 6.900 đồng/kg; lúa Đài thơm 8 giá 7.100 - 7.200 đồng/kg; lúa OM 5451 giá ổn định 6.800 - 7.100 đồng/kg; lúa OM 18 có giá 7.000 - 7.200 đồng/kg; lúa OM 380 dao động từ 7.200 - 7.300 đồng/kg. Lúa Nhật ở mốc ở mốc 7.800 - 8.000 đồng/kg; Nàng Hoa 9 giá 7.600 - 7.700 đồng/kg và lúa Nàng Nhen (khô) ở mức 20.000 đồng/kg.
* Trên thị trường xuất khẩu, giá gạo xuất khẩu của Việt Nam không điều chỉnh so với ngày hôm qua. Theo Hiệp hội Lương thực Việt Nam (VFA), gạo 100% tấm ổn định ở mức 470 USD/tấn; gạo tiêu chuẩn 5% tấm hiện ở mức 567 USD/tấn; gạo 25% tấm ở mức 545 USD/tấn.
Giá cao su điều chỉnh trái chiều
Tại Sở giao dịch hàng hóa Tokyo (TOCOM), giá cao su giao kỳ hạn tháng 9/2024 tăng 0,19% về ở mức 321,1 Yên/kg tại thời điểm khảo sát vào lúc 6h ngày 16/7 (giờ Việt Nam).
Trên Sàn giao dịch hàng hóa tương lai Thượng Hải (SHFE), giá cao su RSS3 giao kỳ hạn tháng 9/2024 giảm 1,81% ở mức 14.375 Nhân dân tệ/tấn.
Hơn 1 tháng qua, giá mủ cao su bất ngờ tăng trở lại thời hoàng kim khiến người trồng cao su ở Nghệ An phấn khởi, vì suốt thời gian dài trước đó, giá mủ luôn ở mức thấp.
Giá mủ cao su trước đây thu mua cho vùng nguyên liệu 15.000 đồng/kg, nay giá dao động từ 21.000 - 23.000 đồng/kg, như vậy, người trồng cao su đã có lãi và yên tâm để chăm sóc vườn cây.
KHÁNH LINH (t/h)