Giá cà phê thế giới cùng giảm
Giá cà phê trong nước tăng nhẹ 400 - 600 đồng/kg so với ngày hôm qua nằm trong khoảng 126.500-127.200 đồng/kg. Hiện giá mua trung bình tại các tỉnh Tây Nguyên là 127.100 đồng/kg, giá mua cao nhất tại các tỉnh Đắk Nông là 127.200 đồng/kg.
Cụ thể, giá cà phê thu mua tại tỉnh Gia Lai (Chư Prông) là 127.000 đồng, ở Pleiku và La Grai cùng giá 126.900 đồng/kg; Tại tỉnh Kon Tum ở mức giá 127.000 đồng/kg; Tại tỉnh Đắk Nông cà phê được thu mua với giá cao nhất 127.200 đồng/kg.
Giá cà phê nhân xô (cà phê nhân, cà phê nhân tươi) tại tỉnh Lâm Đồng ở các huyện như Bảo Lộc, Di Linh, Lâm Hà, cà phê được thu mua với giá 126.500 đồng/kg.
Tại tỉnh Đắk Lắk tăng nhẹ 400 đồng/kg; ở huyện Cư M'gar cà phê được thu mua ở mức khoảng 127.000 đồng/kg, còn tại huyện Ea H'leo, thị xã Buôn Hồ được thu mua cùng mức 126.900 đồng/kg.
Theo ghi nhận mới nhất, giá cà phê trên thị trường thế giới cùng giảm. Cụ thể, giá cà phê trực tuyến Robusta tại London giao tháng 9/2024 được ghi nhận tại mức 4.469 USD/tấn, giảm 0,68%; giá cà phê Arabica giao tháng 9/2024 tại New York ở mức 237,9 UScent/pound sau khi giảm 0,13%.
ICO cho biết xuất khẩu cà phê toàn cầu tháng 5 đạt 11,8 triệu bao, tăng 9,8% so với cùng kỳ năm ngoái và đánh dấu tháng tăng trưởng thứ 8 liên tiếp kể từ đầu niên vụ đến nay.
Tính chung 8 tháng đầu niên vụ 2023 - 2024 (tháng 10/2023 đến tháng 5/2024), xuất khẩu cà phê toàn cầu đạt 92,7 triệu bao, tăng 10,9% tương đương 9,1 triệu bao so với cùng kỳ niên vụ trước.
Trong đó, cà phê nhân xanh tăng 12% trong tháng 5 lên gần 10,8 triệu bao và chiếm 91,3% thương mại cà phê toàn cầu. Lũy kế sau 8 tháng đầu niên vụ hiện tại đạt 84 triệu bao, tăng 11,6% so với niên vụ trước.
Arabica Brazil là động lực tăng trưởng chính của thương mại cà phê nhân toàn cầu, với xuất khẩu tăng tới 56,1% trong tháng 5 và tăng 24,8% sau 8 tháng đầu niên vụ 2023 - 2024, đạt tổng cộng hơn 29 triệu bao. Riêng Brazil - nhà sản xuất cà phê lớn nhất thế giới, đã xuất khẩu 3,1 triệu bao arabica trong tháng 5, tăng mạnh 59,2% so với cùng kỳ năm trước.
Xuất khẩu cà phê arabica Colombia cũng tăng 10% trong tháng 5 và 10,6% sau 8 tháng đầu niên vụ hiện tại, đạt 8,1 triệu bao. Nước sản xuất và xuất khẩu chính của nhóm cà phê này là Colombia đã xuất khẩu 0,9 triệu bao trong tháng 5 và tổng cộng hơn 7,8 triệu bao sau 8 tháng đầu niên vụ 2023 - 2024, tăng lần lượt là 10,6% và 9,4% so với cùng kỳ niên vụ trước.
Giá hồ tiêu đồng loạt đứng yên
Ghi nhận mới nhất, giá tiêu hôm nay đồng loạt đứng yên trên diện rộng. Theo đó, thương lái tại Đắk Lắk và Đắk Nông đang cùng thu mua hồ tiêu với giá 146.000 đồng/kg.
Mức giao dịch 145.000 đồng/kg được ghi nhận tại các tỉnh Gia Lai, Bình Phước, Đồng Nai và Bà Rịa - Vũng Tàu.
Trên thị trường thế giới thế giới, giá giao dịch tiêu đen Lampung (Indonesia), giá thu mua tiêu đen Brazil ASTA 570 và giá tiêu đen Kuching (Malaysia) ASTA duy trì ổn định so với ngày 21/7; giá thu mua tiêu trắng Muntok và giá tiêu trắng Malaysia ASTA không có thay đổi mới.
Dù giá tiêu đang ở mức cao nhưng các địa phương, và ngay cả người dân hiện cũng rất thận trọng trong việc mở rộng diện tích trồng hồ tiêu. Nguyên nhân một phần do giá trị của hồ tiêu không còn cao bằng những loại cây trồng khác. Từ lâu hồ tiêu không còn được coi là "vàng đen".
Tại Đông Nam Bộ, Đồng Nai là một trong những tỉnh trồng hồ tiêu lớn với khoảng 11.000 ha. Năm 2018, diện tích hồ tiêu của tỉnh Đồng Nai đạt 19.000 ha. Nhiều năm giá tiêu ở mức thấp khiến tỉnh này mất đi 8.000 ha trồng tiêu để chuyển sang những loại cây trồng có giá trị cao hơn. Năm nay, mặc dù mức giá tăng gấp đôi nhưng người dân vẫn dè dặt mở rộng diện tích.
Giá gạo tăng nhẹ, giá lúa ổn định
Cụ thể, theo cập nhật từ Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn tỉnh An Giang, giá gạo tăng nhẹ. Cụ thể, giá gạo nguyên liệu IR 504 hè thu tăng nhẹ 50 đồng/kg ở mức 10.700 - 10.800 đồng/kg; gạo thành phẩm IR 504 duy trì ở mức 12.600 - 12.700 đồng/kg.
Tại các chợ lẻ, giá gạo ghi nhận không có sự điều chỉnh với các mặt hàng gạo lẻ. Hiện gạo Nàng Nhen có giá niêm yết cao nhất 30.000 đồng/kg; gạo Jasmine 18.000 - 20.000 đồng/kg; gạo Nàng hoa 20.000 đồng/kg; gạo tẻ thường dao động quanh mốc 15.000 - 16.000 đồng/kg; gạo thơm thái hạt dài 20.000 - 21.000 đồng/kg; gạo Hương lài 20.000 đồng/kg; gạo thơm Đài Loan 21.000 đồng/kg; gạo trắng thông dụng 17.000 đồng/kg; gạo Sóc thường 18.500 đồng/kg; gạo Sóc Thái giá 20.000 đồng/kg; gạo Nhật giá 22.000 đồng/kg.
Mặt hàng phụ phẩm hôm nay ghi nhận có điều chỉnh so với ngày hôm qua. Hiện, giá tấm IR 504 ở mức 8.500 - 8.700 đồng/kg, giảm 200 đồng/kg. Trong khi đó, giá cám khô lên mức 7.100 - 7.250 đồng/kg, tăng 50 - 100 đồng/kg.
Giá lúa hôm nay ổn định. Cụ thể, giá lúa IR 50404 dao động quanh mốc 6.900 - 7.000 đồng/kg; lúa Đài thơm 8 ở giá 7.100 - 7.300 đồng/kg; lúa OM 5451 giá ở mức 6.900 - 7.200 đồng/kg; lúa OM 18 có giá 7.000 - 7.200 đồng/kg; lúa OM 380 dao động 7.000 - 7.200 đồng/kg; lúa Nhật ở mốc ở mốc 7.800 - 8.000 đồng/kg; lúa Nàng Hoa 9 giá 6.600 - 6.800 đồng/kg, lúa Nàng Nhen (khô) ở mức 20.000 đồng/kg.
Cũng theo đó, thị trường nếp ghi nhận không có sự điều chỉnh so với ngày hôm qua. Nếp đùm 3 tháng 7.100 - 7.300 đồng/kg. Ngoài ra, nếp Long An (khô) 9.000 - 9.200 đồng/kg, ổn định so với hôm qua. Mặt khác, nếp 3 tháng (tươi) ổn định so với hôm qua ở mức 7.100 - 7.300 đồng/kg và nếp Long An 7.400 - 7.600 đồng/kg.
Trên thị trường xuất khẩu, giá gạo xuất khẩu của Việt Nam không có điều chỉnh so với ngày hôm qua. Theo Hiệp hội Lương thực Việt Nam (VFA), gạo 100% tấm ổn định ở mức 460 USD/tấn; gạo tiêu chuẩn 5% tấm giữ vững ở mức 560 USD/tấn; gạo 25% tấm ở mức 537 USD/tấn.
Giá cao su tăng giảm trái chiều
Tại Sở giao dịch hàng hóa Tokyo (TOCOM), giá cao su giao kỳ hạn tháng 8/2024 tăng 0,62% lên mức 321 yen/kg tại thời điểm khảo sát vào lúc 6h30 (giờ Việt Nam).
Trên Sàn giao dịch hàng hóa tương lai Thượng Hải (SHFE), giá cao su RSS3 giao kỳ hạn tháng 8/2024 giảm 1% ở mức 14.340 nhân dân tệ/tấn.
Tháng 6/2024, Trung Quốc vẫn là thị trường xuất khẩu cao su lớn nhất của Việt Nam, chiếm 70,82% tổng lượng cao su xuất khẩu của cả nước, đạt 108,7 nghìn tấn, trị giá 170,15 triệu USD, tăng 115,2% về lượng và tăng 123,8% về trị giá so với tháng 5/2024;
Tuy nhiên so với tháng 6/2023 giảm 21,7% về lượng và giảm 5,8% về trị giá, đây là tháng thứ 5 liên tiếp lượng cao su xuất khẩu sang Trung Quốc giảm so với cùng kỳ năm 2023, thông tin từ Bộ Công Thương Việt Nam.
Giá bình quân cao su xuất khẩu sang Trung Quốc ở mức 1.565 USD/tấn, tăng 4% so với tháng 5/2024 và tăng 20,3% so với tháng 6/2023. Lũy kế 6 tháng đầu năm 2024, Việt Nam xuất khẩu sang Trung Quốc 489,37 nghìn tấn cao su, trị giá 717,9 triệu USD, giảm 16% về lượng và giảm 8% về trị giá so với cùng kỳ năm 2023.
Đáng chú ý, trong tháng 6/2024, xuất khẩu cao su sang một số thị trường vẫn tăng trưởng tốt so với tháng 6/2023 như: Đài Loan, SriLanka, Đức, Indonesia, Brazil, Malaysia, Tây Ban Nha… Trong khi đó, xuất khẩu sang một số thị trường lớn vẫn giảm mạnh như: Trung Quốc, Ấn Độ, Hàn Quốc, Thổ Nhĩ Kỳ, Nga, Mỹ, Nhật Bản…
KHÁNH LINH (t/h)