Giá cà phê đồng loạt tăng
Kết thúc phiên giao dịch, giá cà phê Robusta trên sàn London ngày 24/8/2024 lúc 4h30 tăng mạnh, mức tăng 4.340 - 5.128 tấn. Cụ thể, kỳ hạn giao hàng tháng 9/2024 là 5.128 USD/tấn (tăng 225 USD/tấn); kỳ hạn giao hàng tháng 11/2024 là 4.715 USD/tấn (tăng 141 USD/tấn); kỳ hạn giao hàng tháng 1/2025 là 4.513 USD/tấn (tăng 133 USD/tấn) và kỳ hạn giao hàng tháng 3/2025 là 4.340 USD/tấn (tăng 119 USD/tấn).
Giá cà phê Arabica trên sàn New York sáng ngày 24/8/2024 sắc xanh chiếm ưu thế, mức tăng từ 3.05 - 4.40 cent/lb. Cụ thể, kỳ hạn giao hàng tháng 12/2024 là 247.30 cent/lb, tăng 1.81%; kỳ giao hàng tháng 32025 là 244.80 cent/lb (tăng 1.49 %); kỳ giao hàng tháng 5/2025 là 242.60 cent/lb (tăng 1.38 %) và kỳ giao hàng tháng 7/2025 là 240.20 cent/lb, tăng 1.29 %.
Giá cà phê Arabica Brazil sáng ngày 24/8/2024 tăng, giảm trái chiều. Cụ thể, kỳ hạn giao hàng tháng 9/2024 là 302.05 USD/tấn (tăng 0.02%); kỳ giao hàng tháng 12/2024 là 300.40 USD/tấn (giảm 0.23%); kỳ giao hàng tháng 3/2025 là 299.50 USD/tấn (tăng 1.32 %) và giao hàng tháng 5/2025 là 296.70 USD/tấn (tăng 1.49%).
Cà phê Robusta giao dịch trên sàn ICE Futures Europe (sàn London) mở cửa lúc 16:00 và đóng cửa lúc 00:30 (hôm sau), giờ Việt Nam.
Cà phê Arabica trên sàn ICE Futures US (sàn New York) mở cửa lúc 16:15 và đóng cửa lúc 01:30 (hôm sau), giờ Việt Nam.
Đối với cà phê Arabica giao dịch trên sàn B3 Brazil sẽ mở cửa từ 19:00 - 02:35 (hôm sau), giờ Việt Nam.
Giá cà phê vào hôm thứ Sáu đã phục hồi sau những tổn thất ban đầu và tăng cao hơn với cà phê Robusta tăng vọt lên mức cao kỷ lục mới cà phê, Arabica đạt mức cao nhất trong 2 năm rưỡi vào ngày thứ Ba và cà phê Robusta tăng vọt lên mức cao kỷ lục vào ngày thứ Sáu khi điều kiện thời tiết bất lợi ở Brazil và Việt Nam đe dọa đến mùa màng cà phê toàn cầu. Thị trường hiện tại đang trong cơn eo hẹp nguồn cung cấp, do đó rất nhạy cảm trước bất kỳ tin tức nào gây bất lợi về phía cung cấp.
Bên cạnh đó theo chuyên gia thị trường cà phê Nguyễn Quang Bình, giá cà phê hai sàn tăng tốt, cà phê Robusta bùng mạnh khi nắm chắc tin từ Cục Dự trữ Liên bang bang Mỹ FED sẽ hạ lãi suất đồng USD.
Giá cà phê trong nước được cập nhật lúc 4h30 phút ngày 24/8/2024 như sau, thị trường cà phê trong nước hôm nay quay đầu giảm nhẹ so với cùng thời điểm hôm qua, nằm trong khoảng 117.500 - 118.300, mức giảm 1.000 đồng/kg. Hiện giá mua trung bình tại các tỉnh Tây Nguyên là 118.100 đồng/kg, giá mua cao nhất tại tỉnh Đắk Nông, Đắk Lắk, Gia Lai, Kon Tum là 118.300 đồng/kg.
Cụ thể, giá cà phê thu mua tại tỉnh Gia Lai (Chư Prông) là 118.300 đồng, ở Pleiku và La Grai cùng giá 118.200 đồng/kg; Tại tỉnh Kon Tum ở mức giá 118.300 đồng/kg; Tại tỉnh Đắk Nông cà phê được thu mua với giá cao nhất 118.300 đồng/kg.
Giá cà phê nhân xô (cà phê nhân, cà phê nhân tươi) tại tỉnh Lâm Đồng ở các huyện như Bảo Lộc, Di Linh, Lâm Hà, cà phê được thu mua với giá 117.500 đồng/kg.
Giá cà phê hôm nay (ngày 24/8) tại tỉnh Đắk Lắk; ở huyện Cư M'gar cà phê được thu mua ở mức khoảng 118.300 đồng/kg, còn tại huyện Ea H'leo, thị xã Buôn Hồ được thu mua cùng mức 118.200 đồng/kg.
Theo ông Dương Đức Quang - Phó Tổng giám đốc Sở Giao dịch Hàng hoá Việt Nam (MXV), cà phê là một trong những loại hạt đem lại giá trị xuất khẩu lớn cho Việt Nam và giữ vị thế quan trọng trên thị trường cà phê thế giới.
Việt Nam hiện là quốc gia xuất khẩu cà phê Robusta lớn nhất thế giới. Lũy kế từ đầu năm 2024 đến ngày 15/8, xuất khẩu cà phê của Việt Nam đạt gần 1,02 triệu tấn, kim ngạch xuất khẩu 3,8 tỷ USD, giảm 12,1% về lượng và tăng mạnh 37,1% về trị giá so với cùng kỳ năm 2023.
Kết thúc 10 tháng đầu niên vụ 2023-2024 (tính từ tháng 10 năm ngoái đến tháng 7 năm nay), xuất khẩu cà phê của Việt Nam đạt hơn 1,3 triệu tấn, tương đương 90% sản lượng của niên vụ hiện tại và giảm 12,4% so với cùng kỳ niên vụ trước.
Tuy nhiên, sự khan hiếm cà phê đã đẩy giá xuất khẩu tăng vọt. Cũng theo Tổng cục Hải quan, giá cà phê xuất khẩu bình quân trong 15 ngày đầu tháng 8 đạt kỷ lục 5.293 USD/tấn, cao hơn 342 USD/tấn (tương đương tăng 6,9%) so với tháng 7/2024; cao hơn 2.369 USD/tấn (tương đương tăng 81%) so với cùng kỳ năm 2023; và cao hơn 2.244 USD/tấn (tương đương tăng gần 74%) so với giá cà phê xuất khẩu bình quân hồi tháng 1/2024. Giá xuất khẩu dự kiến tiếp tục duy trì đà tăng bởi tình trạng hạn hán đang tác động mạnh mẽ đến nguồn cung cà phê khắp thế giới.
Giá hồ tiêu nối dài đà tăng
Tại tỉnh Đắk Lắk, giá tiêu hôm nay được thu mua với mức 145.000 đồng/kg. Tại tỉnh Đắk Nông, giá tiêu hôm nay được thu mua với mức 145.000 đồng/kg.
Tại tỉnh Gia Lai, giá tiêu hôm nay ở mức 144.000 đồng/kg. Trong khi đó tại Đồng Nai, giá tiêu hôm nay ở mức 144.00 đồng/kg.
Tại tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu giá tiêu hôm nay ở mức 144.000 đồng/kg. Còn tại tỉnh Bình Phước giá tiêu hôm nay được thu mua với mức 142.000 đồng/kg, giảm 2.000 đồng/kg.
Giá tiêu đầu giờ sáng nay giảm 2.000 đồng/kg ở Bình Phước, giữ ổn định tại các địa phương còn lại so với cùng thời điểm hôm qua. Sau 4 ngày tăng liên tiếp, thị trường trong nước điều chỉnh giảm nhẹ ở 1 vài địa phương.
Kết thúc phiên giao dịch gần nhất, Cộng đồng Hồ tiêu Quốc tế (IPC) niêm yết giá tiêu đen Lampung (Indonesia) chốt tại 7.490 USD/tấn, tăng 0,16%; giá tiêu đen Brazil ASTA 570 ở mức 6.300 USD/tấn; giá tiêu đen Kuching (Malaysia) ASTA mức 8.500 USD/tấn.
Giá tiêu trắng Muntok 8.818 USD/tấn, tăng 0,16%; giá tiêu trắng Malaysia ASTA ở mức 10.400 USD/tấn.
Giá tiêu đen Việt Nam giao dịch ở 5.800 USD/tấn với loại 500 g/l; loại 550 g/l mức 6.200 USD/tấn; giá tiêu trắng ở mức 8.500 USD/tấn. IPC tăng giá tiêu Indonesia sau 1 ngày giảm.
Tổng kết tuần này, IPC cho hay thị trường tiếp tục cho thấy những phản ứng trái chiều, khi chỉ có Ấn Độ và Trung Quốc được ghi nhận giảm.
Trao đổi với báo chí, ông Dương Đức Quang - Phó Tổng giám đốc Sở Giao dịch Hàng hoá Việt Nam (MXV) cho biết, từ đầu năm 2024 đến nay, giá hồ tiêu trong nước liên tục neo ở mức cao.
Nguyên nhân chủ yếu xuất phát từ vấn đề thiếu hụt nguồn cung. Diện tích trồng hồ tiêu tại nước ta đã giảm mạnh trong những năm gần đây, khiến sản lượng có xu hướng đi xuống, không đủ đáp ứng nhu cầu trên thị trường.
Năm 2024, sản lượng hồ tiêu trong nước ước tính khoảng 170.000 tấn, là mức thấp nhất trong 5 năm trở lại đây. Trên thị trường toàn cầu, tình trạng thiếu hụt tiêu cùng diễn ra, thế giới dự kiến thiếu hụt 64.000 tấn tiêu trong năm nay.
Nguồn cùng thiếu hụt trong nước và quốc tế không thể bù đắp trong thời gian ngắn, tạo điều kiện giúp giá neo cao, từ đó thu về kim ngạch xuất khẩu lớn dù lượng xuất khẩu giảm.
Giá cao su tăng giảm trái chiều
Tại Sở giao dịch hàng hóa Tokyo (TOCOM), giá cao su giao kỳ hạn tháng 9/2024 tăng 0,74% lên mức 340 yen/kg tại thời điểm khảo sát vào lúc 6h ngày 23/8 (giờ Việt Nam).
Trên Sàn giao dịch hàng hóa tương lai Thượng Hải (SHFE), giá cao su RSS3 giao kỳ hạn tháng 9/2024 giảm 0,47% ở mức 14.830 Nhân dân tệ/tấn.
Từ đầu tháng 8/2024 đến nay, giá mủ cao su nguyên liệu tại các tỉnh, thành phố không có biến động lớn. Tại một số công ty cao su, giá thu mua mủ cao su nguyên liệu duy trì quanh mức 345 - 390 đồng/TSC.
Theo số liệu thống kê của Tổng cục Hải quan Việt Nam, tháng 7/2024, xuất khẩu cao su của Việt Nam đạt 186,03 nghìn tấn, trị giá 307,91 triệu USD, tăng 21,2% về lượng và tăng 24,7% về trị giá so với tháng 6/2024; so với tháng 7/2023 vẫn giảm 15,3% về lượng, nhưng tăng 7,3% về trị giá, đây là tháng thứ tư liên tiếp lượng cao su xuất khẩu giảm so với cùng kỳ năm 2023.
Lũy kế 7 tháng đầu năm 2024, xuất khẩu cao su của Việt Nam đạt 912,72 nghìn tấn, trị giá trên 1,41 tỷ USD, giảm 7,5% về lượng, nhưng tăng 5,9% về trị giá so với cùng kỳ năm 2023.
Giá lúa giảm nhẹ, gạo đi ngang
Hiện giá nếp An Giang (tươi) neo tại ngưỡng 7.000 - 7.200 đ/kg; nếp Long An (tươi) đang có giá 7.400 - 7.600 đ/kg.
Trong khi đó, giá nếp Long An (khô) đang là 7.000 -7.900 đ/kg; nếp IR 4625 (tươi) neo quanh ngưỡng 7.500 - 7.650 đ/kg.
Còn lúa IR 50404 đang giữ quanh giá 7.800 - 8.000 đ/kg; còn lúa Đài thơm 8 neo tại ngưỡng 8.400 - 8.600 đ/kg.
Giá lúa OM 5451 giữ tại ngưỡng 8.200 - 8.400 đ/kg; lúa OM 18 có giá 8.500 - 8.700 đ/kg; lúa OM 380 giữ quanh mức 7.600 - 7.800 đ/kg (giảm 200 đồng); lúa Nhật neo tại mốc 7.800 - 8.000 đ/kg.
Trong khi, giá lúa Nàng Nhen (khô) giao dịch ở mức 20.000 đ/kg; còn Nàng Hoa 9 giữ giá 6.900 - 7.000 đ/kg.
Đối với mặt hàng gạo, khu vực BĐSCL không có biến động mới. Hiện giá gạo nguyên liệu IR 504 Hè Thu ở mức 11.550 - 11.600 đ/kg; gạo thành phẩm IR 504 có mức 13.550 - 13.650 đ/kg.
Giá nếp ruột đang là 16.000 - 20.000 đ/kg; gạo thường đang ở ngưỡng 15.000 - 16.000 đ/kg; gạo Nàng Nhen có giá 28.000 đ/kg.
Tương tự, giá gạo thơm thái hạt dài có ngưỡng 20.000 - 21.000 đ/kg; gạo thơm Jasmine có giá 18.000 - 20.000 đ/kg; trong khi gạo Hương Lài giữ mức 20.000 đ/kg.
Giá gạo trắng thông dụng thu mua với mức 17.000 đ/kg; gạo Nàng Hoa đang là 20.000 đ/kg; gạo Sóc thường duy trì ở mức 18.500 đ/kg; còn gạo Sóc Thái là 20.000 đ/kg.
Giá gạo thơm Đài Loan đang có giá 21.000 đ/kg; còn gạo Nhật đang neo tại mốc 22.000 đ/kg. Còn giá tấm OM 5451 ở mức 9.400 - 9.600 đ/kg, giá cám khô có mức 7.150 - 7.250 đ/kg.
Trên thị trường xuất khẩu, giá gạo 100% tấm ở mức 440 USD/tấn; gạo tiêu chuẩn 5% tấm có giá 578 USD/tấn. Còn giá gạo 25% tấm ở ngưỡng 544 USD/tấn (tăng 3 USD).
Tp.Cần Thơ là một trong 5 địa phương đầu tiên được Bộ NN-PTNT cùng Viện Nghiên cứu lúa gạo quốc tế hỗ trợ triển khai thí điểm đề án. Địa phương đã triển khai, thu hoạch và đánh giá kết quả vụ Hè Thu 2024 và đang triển khai vụ thứ 2 (vụ Thu Đông).
Theo ông Trần Thái Nghiêm - Phó Giám đốc Sở NN-PTNT thành phố Cần Thơ, đề án triển khai đón nhận được sự đồng thuận của các bên liên quan: nông dân, hợp tác xã, doanh nghiệp, chính quyền địa phương, các nhà khoa học,...
Vụ lúa đầu tiên được thu hoạch với nhiều kết quả khả quan. Người dân áp dụng các giải pháp tiến bộ khoa học kỹ thuật trong thực hiện mô hình thí điểm: tổng lượng giống gieo sạ khoảng 60 kg/ha, giảm gần 50% so với canh tác truyền thống; giảm 30% lượng phân bón; giảm từ 1 - 2 lần phun xịt thuốc bảo vệ thực vật; năng suất lúa cao hơn khoảng 7 - 10% so với ngoài mô hình.
Từ kết quả cho thấy chất lượng lúa được nâng lên, nông dân tăng lợi nhuận từ 3 - 5 triệu đồng/ha,... Ngoài ra, theo số liệu của Viện Nghiên cứu lúa gạo quốc tế, khi áp dụng các gói kỹ thuật trong canh tác lúa như: "1 phải, 5 giảm" (phải sử dụng giống cấp xác nhận, giảm lượng giống, giảm lượng nước, giảm lượng phân bón, giảm số lần sử dụng thuốc bảo vệ thực vật, giảm thất thoát sau thu hoạch) thì tổng lượng khí phát thải đo được đã giảm từ 2 - 6 tấn CO2 tương đương/ha.
Đề cập về đầu ra đối với gạo giảm phát thải, ông Trần Thái Nghiêm nhận định, trong giai đoạn hiện nay, gạo phát thải thấp chưa hình thành, các thị trường gạo phát thải thấp chưa áp dụng nhiều.
Kỳ vọng khi thị trường áp dụng đồng bộ tiêu chuẩn gạo phát thải thấp và thương hiệu gạo phát thải được quảng bá sẽ mở rộng được thị trường, đặc biệt là các thị trường khó tính.
Và, khi đề án với sản phẩm gạo chất lượng cao sẽ giúp cho doanh nghiệp có được uy tín để tiếp tục phát triển thị trường; thúc đẩy liên kết chặt chẽ giữa doanh nghiệp và các vùng sản xuất lúa; giúp doanh nghiệp yên tâm đàm phán hợp đồng trong vùng nguyên liệu sẵn có để thực hiện các hợp đồng xuất khẩu.
Dừa sáp bán tại vườn có giá 30.000-90.000 đồng/trái
Theo Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn tỉnh Trà Vinh, dừa sáp được trồng nhiều nhất ở huyện Cầu Kè (1.145,7 ha) và rải rác tại huyện Tiểu Cần, Càng Long, Trà Cú…
Diện tích trồng dừa sáp toàn tỉnh tăng qua từng năm. Cụ thể, năm 2005 diện tích trồng dừa sáp là 43 ha, đến năm 2024 tăng lên 1.277,6 ha. Song song với diện tích, sản lượng dừa sáp cũng tăng lên rất nhiều - từ 118.788 trái năm 2005 lên hơn 3,1 triệu trái trong năm 2024.
Giá nông sản hôm nay 22/8: Tiêu tiếp đà tăng mạnh; ớt a riêu được bán với giá từ 300-350 nghìn đồng/kg
Ớt a riêu được bán với giá từ 300-350 nghìn đồng/kg
Người dân xưa kia đi rừng, đi rẫy, hái những trái ớt này về ăn, thấy thơm và có vị cay nồng không loại ớt nào sánh được, liền mang về trồng tại vườn nhà. Sau dần, ngày càng nhiều người biết đến ớt a riêu, lùng mua bằng được.
Tuy nhiên, để hái được 1kg ớt a riêu có khi phải mất cả ngày trên núi, bởi mỗi quả ớt chỉ bé hơn đầu đũa, dài cỡ 1cm. Vì vậy, giá mỗi cân ớt a riêu có thời điểm lên tới 600-700 nghìn đồng/kg.
Ớt a riêu có vị thơm, cay, giòn mà không loại ớt nào sánh được. Mỗi đợt, gia đình họ thu hoạch được từ 20-25kg ớt, một năm hái được hơn 1 tạ, bán với giá từ 200-270 nghìn đồng/kg. Thậm chí, những năm đầu trồng ớt, họ còn bán được với giá 400 nghìn đồng/kg. Ớt này họ mua về muối rồi bán, một lọ ớt khoảng 2 lạng sau khi muối họ đang bán với giá 70 nghìn đồng.
Một người tiêu dùng cho biết, có thời điểm gần Tết, ớt hiếm nên giá lên tới 600-700 nghìn đồng/kg. Lúc rẻ nhất cũng 250 nghìn đồng/kg. Mấy hôm trước, tại lễ hội ớt họ cũng thấy họ bán từ 300-350 nghìn đồng/kg.
KHÁNH LINH (t/h)