Giá cà phê trong nước tăng nhẹ 300 đồng/kg
Tại huyện Di Linh, Lâm Hà, Bảo Lộc (Lâm Đồng) giá cà phê hôm nay được thu mua với mức 122.700 đồng/kg.
Tại huyện Cư M'gar (Đắk Lắk) giá cà phê hôm nay ở mức 123.200 đồng/kg. Tại huyện Ea H'leo (Đắk Lắk), Buôn Hồ (Đắk Lắk) giá cà phê hôm nay được thu mua cùng mức 123.100 đồng/kg.
Tương tự tại tỉnh Đắk Nông, giá cà phê hôm nay thu mua ở mức 123.200 đồng/kg tại Gia Nghĩa và 123.100 đồng/kg ở Đắk R'lấp.
Tại tỉnh Gia Lai, giá cà phê hôm nay ở mức 123.100 đồng/kg (Chư Prông), ở Pleiku và La Grai cùng giá 123.000 đồng/kg.
Còn giá cà phê hôm nay tại tỉnh Kon Tum được thu mua với mức 123.000 đồng/kg. Thị trường cà phê trong nước giữ ổn định so với cùng thời điểm hôm qua.
Kết thúc phiên giao dịch cuối tuần trước, giá cà phê Robusta tại London giao tháng 9/2024 tăng 2 USD/tấn, ở mức 4.227 USD/tấn, giao tháng 11/2024 tăng 5 USD/tấn, ở mức 4.088 USD/tấn.
Giá cà phê Arabica giao tháng 9/2024 tăng 3,25 cent/lb, ở mức 230,5 cent/lb, giao tháng 12/2024 tăng 3,15 cent/lb, ở mức 229,55 cent/lb.
Tổng kết tuần trước, giá cà phê Robusta kỳ hạn giao tháng 9 giảm 75 USD/tấn. Giá cà phê Arabica kỳ hạn giao tháng 9 tăng 0,25 cent/lb. Giá cà phê nội địa mất trung bình 700 đồng/kg.
Chuyên gia Nguyễn Quang Bình nhận định, thị trường cà phê tuần này xuất hiện một số dấu hiệu tích cực. Báo cáo mới nhất từ Bộ Lao động Mỹ công bố vào ngày 2/8, tăng trưởng việc làm trong tháng 7 đã chậm lại đáng kể, trong khi tỷ lệ thất nghiệp đi lên. Điều này khiến cho Fed thúc đẩy nhanh quá trình giảm lãi suất ngay trong tháng 9, thậm chí sớm hơn. Yếu tố trên sẽ tác động đến đồng USD và giúp thị trường tích cực trong tuần này.
Trên 2 sàn, hoạt động mua bù bán từ những hợp đồng kỳ hạn đã xuất hiện vào thứ sáu sau khi Viện cà phê Honduras báo cáo rằng xuất khẩu cà phê từ Honduras, quốc gia sản xuất cà phê lớn nhất Trung Mỹ, đã giảm 11% so với cùng kỳ năm ngoái vào tháng 7 xuống còn 610.669 bao.
Trong khi đó, Viện Cà phê Quốc gia Costa Rica (ICAFE) đã báo cáo tổng lượng cà phê xuất khẩu tích lũy trong 10 tháng đầu của niên vụ cà phê hiện tại lại giảm 5% so với cùng kỳ năm trước, đạt tổng cộng 818.726 bao. ICAFE cũng đã ước tính sản lượng cho niên vụ cà phê 2023/2024 sẽ đạt khoảng 1,30 triệu bao, hoặc thấp hơn khoảng 13% so với niên vụ cà phê trước.
Giá cà phê giảm trong 3 tuần qua và đạt mức thấp nhất trong 1 tháng vào hôm thứ Năm, do áp lực thu hoạch cà phê ở Brazil gần như đã hoàn tất. Nhiều chuyên gia nhận định giá đã chạm đáy vè sẽ hồi phục từ tuần này.
Giá hồ tiêu tăng 500 - 1.000 đồng/kg
Ghi nhận mới nhất, giá tiêu hôm nay tăng 500 - 1.000 đồng/kg. Cụ thể, sau khi tăng 500 đồng/kg, thương lái tại Đắk Lắk đang thu mua hồ tiêu với giá 147.000 đồng/kg. Đây cũng là mức giá được ghi nhận tại Gia Lai, Đắk Nông, Bà Rịa - Vũng Tàu, Bình Phước và Đồng Nai sau khi tăng 1.000 đồng/kg.
Trên thị trường thế giới thế giới, giá giao dịch tiêu đen Lampung (Indonesia), giá thu mua tiêu đen Brazil ASTA 570 và giá tiêu đen Kuching (Malaysia) ASTA duy trì ổn định so với ngày 2/8; giá thu mua tiêu trắng Muntok và giá tiêu trắng Malaysia ASTA không có thay đổi mới.
Theo số liệu của Tổng cục Hải quan, trong quý II, xuất khẩu hồ tiêu của Việt Nam đạt 84.609 tấn, trị giá 394 triệu USD, tăng mạnh 49% về lượng và 67,1% về trị giá so với quý I, đồng thời tăng 10,5% về lượng và 57,5% về trị giá so với quý II năm ngoái.
Như vậy, lũy kế trong 6 tháng đầu năm, xuất khẩu hồ tiêu đạt 141.392 tấn với trị giá thu về 629,9 triệu USD, so với cùng kỳ năm ngoái giảm 7,4% về lượng nhưng tăng 30% về trị giá nhờ giá tăng cao.
Giá tiêu xuất khẩu bình quân trong quý II đạt 4.657 USD/tấn, tăng 12,1% so với quý I và tăng 42,5% so với quý II/2023. Tính chung 6 tháng đầu năm tăng 40,7% so với cùng kỳ lên mức 4.455 USD/tấn. Tính riêng trong tháng 6 giá tiêu xuất khẩu đạt 5.058 USD/tấn, mức cao nhất ghi nhận được trong vòng 7 năm qua (kể từ tháng 6/2017).
Về chủng loại, tiêu đen nguyên hạt chiếm đến 74,6% tổng khối lượng hồ tiêu xuất khẩu của Việt Nam trong 6 tháng đầu năm, tiếp đến là tiêu đen xay chiếm 12,9% tỷ trọng; tiêu trắng nguyên hạt chiếm 8,1%; còn lại 3,6% là tiêu trắng xay và tỷ trọng nhỏ 0,8% là tiêu ngâm giấm, mộc, đầu đinh, xanh, hồng…
Giá cao su Arabica tăng hơn 1,3%
Tại Sở giao dịch hàng hóa Tokyo (TOCOM), giá cao su giao kỳ hạn tháng 9/2024 tăng 1,85% lên mức 324,6 yen/kg tại thời điểm khảo sát vào lúc 6h ngày 5/8 (giờ Việt Nam).
Trên Sàn giao dịch hàng hóa tương lai Thượng Hải (SHFE), giá cao su RSS3 giao kỳ hạn tháng 9/2024 tăng 0,07% ở mức 14.355 Nhân dân tệ/tấn.
Bộ Công Thương Việt Nam nhận định, xuất khẩu cao su sẽ gặp khó khăn do nhu cầu giảm tại Trung Quốc, thị trường nhập khẩu chính của Việt Nam.
Nhu cầu cao su tại Trung Quốc giảm, ảnh hưởng bởi sự sụt giảm trong doanh số bán ô tô, với dự báo nhu cầu năm 2024 chỉ còn 7,35 triệu tấn.
Giá lúa gạo duy trì ổn định
Thị trường gạo tại các địa phương hôm nay nhìn chung nguồn về ít, gạo đẹp về ít, giá ổn định.
Với mặt hàng gạo, giá gạo ghi nhận không có điều chỉnh so với ngày hôm qua. Cụ thể, gạo nguyên liệu IR 504 Hè Thu ở mức 11.050 - 11.150 đồng/kg; gạo thành phẩm IR 504 xuống mức 13.200 - 13.300 đồng/kg.
Cụ thể, tại An Cư (Sóc Trăng), nguồn về ổn định, nhiều gạo yếu, giá ổn định, kho mua chậm lại. Tại Lấp Vò (Đồng Tháp) nguồn về ít, giá ổn định, kho mua cầm chừng, giá gạo ổn định. Tại An Giang, giá bình ổn, kho mua chậm. Tại Sa Đéc (Đồng Tháp), giá cầm chừng, giá gạo nguyên liệu xô về lượng ít, giá cầm chừng.
Tại các chợ lẻ, giá gạo ghi nhận không có sự điều chỉnh với các mặt hàng gạo lẻ. Hiện gạo Nàng Nhen có giá niêm yết cao nhất 30.000 đồng/kg; gạo Jasmine 18.000 - 20.000 đồng/kg; gạo Nàng Hoa 20.000 đồng/kg; gạo tẻ thường dao động quanh mốc 15.000 - 16.000 đồng/kg; thơm Thái hạt dài 20.000 - 21.000 đồng/kg; gạo Hương Lài 20.000 đồng/kg; gạo thơm Đài Loan (Trung Quốc) 21.000 đồng/kg; gạo trắng thông dụng 17.000 đồng/kg; gạo Sóc thường 18.500 đồng/kg; gạo Sóc Thái giá 20.000 đồng/kg; gạo Nhật giá 22.000 đồng/kg.
Với mặt hàng lúa, ghi nhận tại các địa phương giao dịch lúa cầm chừng, giá lúa ít biến động, nông dân chào giá vững.
Cụ thể, theo cập nhật từ Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn tỉnh An Giang, giá lúa hôm nay ghi nhận không điều chỉnh so với ngày hôm qua, IR 50404 giá dao động quanh mốc 6.900 - 7.000 đồng/kg; lúa Đài thơm 8 ở mức giá 7.400 - 7.600 đồng/kg; lúa OM 5451 giá ở mức 7.000 - 7.200 đồng/kg; lúa OM 18 có giá 7.500 - 7.700 đồng/kg; lúa OM 380 dao động từ 6.800 - 7.000 đồng/kg; lúa Nhật ở mốc ở mốc 7.800 - 8.000 đồng/kg; lúa Nàng Hoa 9 giá 6.900 - 7.000 đồng/kg, và lúa Nàng Nhen (khô) ở mức 20.000 đồng/kg.
Cũng theo đó, thị trường nếp hôm nay duy trì ổn định. Nếp Long An (khô) 7.000 - 7.900 đồng/kg, ổn định so với ngày hôm qua. Nếp IR 4625 (tươi) 7.200 - 7.400 đồng/kg. Nếp Long An (tươi) 7.400 - 7.600 đồng/kg. Nếp An Giang (tươi) 7.000 - 7.200 đồng/kg, đi ngang so với ngày hôm qua.
Trên thị trường xuất khẩu, giá gạo xuất khẩu của Việt Nam ghi nhận không điều chỉnh so với ngày hôm qua. Theo Hiệp hội Lương thực Việt Nam (VFA), gạo 100% tấm ở mức 435 USD/tấn; gạo tiêu chuẩn 5% tấm giữ vững ở mức 559 USD/tấn; gạo 25% tấm ở mức 524 USD/tấn.
Giá chôm chôm tăng mạnh
Do nguồn cung giảm khi bước vào cuối mùa thu hoạch chính vụ, hiện giá nhiều loại chôm chôm tại Đồng bằng sông Cửu Long và các tỉnh lân cận đã tăng mạnh thêm từ 5.000-10.000 đồng/kg so với cách nay khoảng 1 tháng và đang ở mức khá cao.
Giá chôm chôm Thái và chôm chôm nhãn đang được nông dân tại nhiều nơi bán cho thương lái và các vựa thu mua trái cây ở mức 28.000-32.000 đồng/kg; chôm chôm Java ở mức 12.000-15.000 đồng/kg.
Còn giá bán lẻ chôm chôm nhãn và chôm chôm Thái tại nhiều chợ và điểm bán trái cây ở mức 55.000-60.000 đồng/kg, chôm chôm Java ở mức 30.000 đồng/kg. Mức giá này cao hơn gấp đôi so với thời điểm thu hoạch rộ vào tháng 5 vừa qua.
KHÁNH LINH (T/h)