Nhưng mỗi một làng trong Kẻ Mơ lại có một nghề riêng, Hoàng Mai chuyên nấu rượu nên có tên Nôm là Mơ Rượu. Mai Động có nghề làm đậu phụ nên gọi là Mơ Đậu, Bạch Mai có nghề bán thịt nên gọi là Mơ Thịt còn Tương Mai bán xôi lúa và bán cơm nhưng thiên hạ không gọi là Mơ Xôi mà lại gọi là Mơ Cơm. Có thể nghề bán cơm có trước hoặc các quán cơm ấy gây chú ý hơn. Không thấy sử sách nào chép nghề bán cơm ở Tương Mai có từ khi nào chỉ biết là có từ thời Lê. Thời Lê đến thời Nguyễn, làng Tương Mai nằm sát đường Thiên Lý, con đường huyết mạch từ thành Thăng Long vào Nam. Từ trong thành đi về phía Nam hay từ phía Nam đi vào thành thì quan, quân hay dân muốn “lai kinh” đều nghỉ chân và ăn uống ở Tương Mai trước khi đi tiếp. Những gì còn sót lại trong dân gian về Mơ Cơm là câu:
Cơm kia em nấu nồi mười
Cá này niêu đất, rau tươi sanh đồng
Cuối thế kỷ 19, xã hội có nhiều thay đổi các bà, các cô ở Mơ Cơm vào phố mở quán và một trong những quán cơm đã đi vào lịch sử Việt Nam là quán cơm Nhiêu Sáu (tên bà là Nguyễn Thị Ba) ở 20 phố Cửa Nam. Sở dĩ quán có tên Nhiêu Sáu vì chồng bà Ba là Đỗ Văn Sáu, ở làng Tương Mai ông có chức Nhiêu nên gọi là Nhiêu Sáu.
Quán cơm Nhiêu Sáu chủ yếu bán cho phu xe, đám hát xẩm, người khiêng vác thuê trong chợ Cửa Nam. Quán Nhiêu Sáu lúc nào cũng đông khách vì bán rẻ, một xu là được bữa no (thời kỳ này 1kg gạo giá 6 xu), thêm vài trinh nữa là có rượu uống. Lẫn trong khách ăn có cả các nghĩa hưng, họ gặp nhau để bàn bạc một chuyện vô cùng hệ trọng đó là đầu độc lính Pháp đóng trong thành. Không chỉ các nghĩa hưng, thi thoảng còn có chỉ huy của Đề Thám như: Đội Hổ, chánh Tỉnh và một số nhà Nho, thầy dạy tiếng Pháp được các binh lính Việt tín nhiệm như ông Đỗ Văn Đàm, ông Quang, ông Đông Châu... Nhưng mưu lớn bị bại lộ. Bà Nhiêu Sáu bị bắt nhưng chồng bà kịp trốn thoát xuống Hải Phòng. Bị tra tấn dã man nhưng bà không khai ai nên mật thám Pháp không thể bắt bớ thêm. Bất lực trước dũng khí của một người phụ nữ kiên gan, mật thám Pháp đã đóng đinh nhọn vào thùng gỗ, nhét bà vào đó và lăn từ phố Cửa Nam về ngục Hỏa Lò. Cuối cùng, bà Nhiêu Sáu đã chết vì bị tra tấn và bệnh tật trong ngục. Một người làng Tương Mai bán quán gần nhà giam đã mua chuộc cai ngục cho tráo xác, đưa thi hài bà về quê. Ngay trong đêm, con cháu và hàng xóm đã âm thầm nuốt nước mắt tiếc thương tiễn đưa người phụ nữ dũng cảm yên nghỉ trong một nấm mồ đất không bia chí ở cánh đồng của làng.
Thăng Long đâu chỉ có Mơ Cơm mà còn có cả phường bán cơm bên hông Văn Miếu-Quốc Tử Giám. Cuối thời Lê, Văn Miếu-Quốc Tử Giám vẫn chiếm vị trí quan trọng trong nền giáo dục Nho giáo Việt Nam, không chỉ đông đúc khi diễn ra các kỳ thi, ngày thường học trò các trường đến đây học, nghe bình văn nên các quán cơm đã ra đời tại khu vực này. Thời vua Tự Đức, đoạn từ ngã ba Nguyễn Khuyến hiện nay đến ngã ba Quốc Tử Giám vì có nhiều quán cơm nên có tên là phố Hàng Cơm. Khi Văn Miếu-Quốc Tử Giám là nơi nhốt người bị dịch hạch đầu thế kỷ XX thì nơi đây trở nên vắng vẻ, các quán cơm vắng khách đã chuyển đến chỗ khác trong phố.
Nguyễn Ngọc Tiến