Với “vua vàng tặc” Vàng A Phủ, ông đã phát triển 2 kỹ năng quan trọng nhất của giới “vàng tặc” là “săn mạch vàng” và “tồn tại giữa tự nhiên” lên một tầm cao mới để quy tụ đàn em khắp nơi về dưới trướng.
Đãi vàng
Nhặt được vàng thì khó...
Trưa hôm ấy, ngồi túc tắc chén rượu nhạt cạnh ông Phủ và khoảng 20 anh em phu vàng trong mỏ, tôi đã tận mắt chứng kiến sự sùng kính của họ với cá nhân ông Phủ. Họ luôn coi ông là người anh cả, là bậc thầy của họ mặc dù thực tế ông Phủ đã rút chân khỏi giới đào vàng mấy chục năm trước. Ngoài ông M, trên mâm rượu khi ấy còn 3 người nữa đã từng ở dưới trướng của “vua vàng tặc” Vàng A Phủ. Sáu người chúng tôi chẵn một mâm, vừa ăn vừa trò chuyện râm ran. Xung quanh, các phu vàng khác thuộc hàng “chiếu dưới” đàn em cũng ăn uống la hét tưng bừng không kém.
Ông Phủ cho biết: Một cây (lượng) vàng thời xưa (năm 80 đến 90 thế kỷ trước - PV) giá trị chỉ bằng nửa chỉ bây giờ. Thế nhưng sức hút của vàng luôn rất lớn nên cả người miền xuôi với miền ngược đổ lên vùng Cao Bằng, Bắc Kạn, Thái Nguyên khai thác nhiều như kiến cỏ. Thời đấy, vàng thậm chí còn lộ thiên dạng sa khoáng, cám, lấy tay khoắng khoắng mấy cái là ra cả ống xách về nhà. Tuy nhiên không phải ai cũng có duyên với vàng, thế nên thành bại rất khó đoán”.
Đáp lại lời ông, đám đệ tử thuở nào sung sướng cười ngất. Họ nay đều đã ngoài 50 tuổi, đầu bạc trắng, nhưng vẫn đam mê việc đào xới và tin vào “lộc” trời ban cho. Nhiều đàn em của ông Phủ, cho đến bây giờ vẫn chưa hiểu tại sao đàn anh của mình lại “rửa tay gác kiếm” vào đúng lúc sự nghiệp đang lên cao nhất. Họ chỉ nghe truyền tai nhau rằng, sau khi đã rủng rỉnh hầu bao, ông Phủ (lúc ấy đã ngoài 40 tuổi) vẫn chưa có gia đình, đã mua liền một lúc 4-5 căn nhà mặt phố tại Hà Nội. Rồi ông vi vu khắp nơi du ngoạn.
Vào thời điểm đó, ông Phủ đã đi lại bằng máy bay, loại phương tiện mà cho đến thời điểm này, với một số bộ phận dân chúng vẫn là quá xa xỉ. Đáp lại câu hỏi đầy chân tình ấy, ông Phủ chỉ cười, ông vỗ vai họ rồi nhẹ nhàng nói: “Nhặt được bạc thì sang, nhặt được vàng thì khó. Nhiều bưởng vàng đã bị câu nói này vận vào để rồi cuối đời chết trong khánh kiệt và buồn tủi. Nhưng tôi vẫn rất ổn, hiện nay tôi sống an nhàn với vợ và hai con trong một căn nhà rộng rãi ở quận Hai Bà Trưng (Hà Nội). Tôi cũng vẫn khỏe, chú thấy đấy - một mình lái ô tô lên tận đây”.
Theo những gì tôi được nghe sau đó, hầu hết những bưởng vàng lớn trước đây nay đều đã tán gia bại sản. N “chột”, K “râu”, T “lùn”… một thời “kèn cựa” với Vàng A Phủ đều đã mất tích hoàn toàn trong giới. Một số thậm chí rơi phải vòng lao lý hoặc ngửa tay xin ăn từng bữa.
Kỹ năng săn “mạch vàng”
Từ đầu đến cuối, tôi chẳng hé răng mở lời nào, chỉ nghe và quan sát. Theo ghi nhận, các phu vàng, kể cả bưởng vàng M đều là những người dân quê chân chất, gương mặt rất đỗi hiền lành. Họ đều là người dân tốc thiểu số, quanh năm sống trong rừng rú, coi việc đào vàng là nguồn thu nhập chính về nuôi gia đình, chưa bao giờ ý thức được việc khai thác trái phép như này là phạm luật. Về mặt cơ sở vật chất, cả mỏ vàng đều được trang bị rất giản đơn gồm một máy phát điện, một máy nghiền đá, cộng với máy bơm, hệ thống máng đãi vàng...
Một ngách xương cá trong hầm vàng
Theo tìm hiểu được biết, vì mỏ vàng của ông M bên dưới có suối ngầm lớn nên không khí rất thoáng đãng. Ở một số mỏ vàng sâu dưới đất, bưởng vàng thường đầu tư thêm máy tạo khí nhằm cung cấp thêm không khí cho các phu vàng hít thở dưới lòng đất. Để cung cấp điện năng, ông M sử dụng máy phát điện chạy quạt nước, ông tự lắp đặt ở con suối cạn gần đó.
Bên chén rượu nhạt, câu chuyện của những người bạn cũ xoay quanh mấy vấn đề chính về các kỹ năng cần thiết của một phu vàng. Theo đó, hai điều quan trọng nhất sau cái gọi là “lộc trời cho”, phu vàng nhất thiết phải có kiến thức về kỹ năng “săn mạch vàng” và “tồn tại giữa tự nhiên”. Trong đó “săn mạch vàng” giúp phu vàng giàu có, còn kỹ năng “tồn tại”, giúp phu vàng bảo tồn được mạng sống để hưởng thụ số vàng đào được.
Về kỹ năng “săn mạch vàng”, thường những người có kinh nghiệm sau khi quan sát mạch nước ngầm, màu đất rừng sẽ dự đoán được khu vực này có trữ lượng vàng bao nhiêu. Họ bắt đầu triển khai máy móc, ngụy trang thật khéo để qua mắt chính quyền sở tại. Đầu tiên là việc “thả giếng”, mỗi giếng có độ sâu chừng 6 - 70m. Khi thả giếng, điều quan trọng nhất là phải biết hô hấp không sẽ chết ngạt. Mỗi khi xuống độ sâu thêm một nấc, người ở trên buộc cây tre thả xuống, chốc chốc lại khua cây tre khắp lòng giếng đánh tan khí độc ngưng tụ, tạo không khí cho phu vàng hít thở. Theo đó, đây chính là dạng tìm vàng theo “nẹp đứng”, có tí nào là vét tí đấy. Khi “thả giếng” thành công, khai thác cạn kiệt “nẹp đứng”, việc tiếp theo phải đánh hầm “xương cá”.
Đánh hầm "xương cá" có nghĩa là từ trục giếng, các phu vàng sẽ đánh ngang sang, tạo lên các ngách như bộ xương cá. Đây cũng chính là một trong những bước nguy hiểm nhất trong toàn bộ quá trình khai thác hầm vàng. Kiểu này dân bãi vàng còn gọi là kiểu "chạy địa đạo", tạo một mạng lưới ngoằn ngoèo, để "moi khoét" bất kỳ mạch vàng nào trong lòng đất để đưa lên trên tập kết. Sau khi tạo thành hệ thống ngầm này dưới lòng đất thì bắt đầu đuổi “mạch vàng”. Cứ theo “dây” mà lần tới nên còn gọi đó là “phương pháp cuốn chiếu”. Nếu gặp may đào trúng “ục” bắt được đúng “mạch vàng”, chủ bưởng sẽ tha hồ đào xới, cứ xúc lên đãi ra là có vàng, đổi đời trong chốc lát.
Tuy nhiên, không phải vàng nơi nào cũng giống nhau. Có những nơi sau khi sàng đãi, vàng thành phẩm có thể đạt 98-99% bán với giá khá cao. Còn với vàng như nơi ông M đang khai thác, vàng chỉ đạt mức 93%, được các thương lái thu gom với mức 3,5 triệu đồng/ chỉ. Khi được hỏi, cách chia chác cho công nhân, ông M cho biết: “khoán mỗi phu vàng một tháng “đóng góp” 1 đến 2 chỉ tùy “ngách”, đủ lượng khoán, phu vàng đào được bao nhiêu ăn bấy nhiêu”.
Kỹ năng “tồn tại giữa tự nhiên”
Cũng trong buổi rượu hôm ấy, tôi đã liên tiếp được nghe nhiều câu chuyện bên lề của “vua vàng tặc” Vàng A Phủ, những câu chuyện đã góp phần không nhỏ giúp ông đứng vững trên “ngôi vương” của vùng rừng núi Đông Bắc Bộ suốt mấy chục năm qua. Một trong số những câu chuyện ấy là việc ông tự trị rắn độc cắn bằng… rượu.
Vén ống quần cao gần ngang gối, ông Phủ cho chúng tôi xem một vết thương lớn, to gần bằng bàn tay ở sau bắp chân phải của ông. Toàn diện tích vết thương ấy sần sùi, da chuyển sang màu tím nhờn nhợt, nhìn rất đáng sợ. Ông M lúc ấy đang cầm chén rượu, vội vãn uống cạn chén rồi sấn sổ tới dùng ngón tay chọc chọc vào vết thương cười nói đầy phấn khích: “Ôi! đúng là anh tôi rồi! Vết này tưởng chết. Bị rắn lục cắn, không có bất cứ thuốc thang gì, chỉ có rượu mà vẫn sống được”. Rồi ông M cứ thế bô bô kể, thật thà như đếm về cách tình tiết hãi hùng đã xảy ra mấy chục năm trước.
Theo đó, trong một lần đi đào vàng, ông Phủ bị con rắn lục đầu vát tam giác cắn vào bắp chân. Vì biết đó là loài rắn cực độc, ông Phủ đã rất tức giận đập chết con rắn rồi quẳng xác xuống thung lũng gần đó rồi vội về lán nghỉ ngơi. Thời ấy đường xá chưa có, ở giữa nơi rừng thiêng nước độc vắng vẻ, ông Phủ đã xác định chờ chết vì trước đó, chưa ai sống nổi quá 24 tiếng kể từ khi bị rắn lục cắn. Càng nằm, chân chàng trai trẻ gốc Hà Nội cứ sưng phồng lên mọng nước.
Đứng trước sự sống và cái chết, ông Phủ quyết đánh bạc với số phận bằng cách bóc mũ diêm đắp lên vết thương rồi châm lửa đốt. Vết bỏng cháy xèo xèo, ông Phủ cắn răng lấy dao dọc một phát thật sâu rồi sai đàn em mang 5 lít rượu trắng đến, vừa nặn máu vừa rửa vết thương, vừa uống từng hớp rượu to một để… giảm đau.
Sau khi hết đúng 5 lít rượu, ông Phủ gục xuống mềm oặt. Li bì xuốt 3 ngày sau mới tỉnh, lúc đấy chân ông đã xẹp xuống nhưng mất hết cảm giác. Tuy nhiên tiếc “ục” vàng vừa được phát hiện, ông Phủ vẫn lết đi làm. Khoảng 1 tháng sau, khi chân khỏi thì ông cũng được một mớ vàng to tướng. Tiếng lành đồn xa, các chủ bưởng khác sau khi nghe tin ông Phủ bị rắn độc cắn mà chỉ chữa bằng rượu đã lắc đầu lè lưỡi: “Trời giết nó còn chả chết, thôi không dại gì dây với nó”…
Long Nguyễn
(Còn nữa)