Sáng nay (ngày 18/7) tại Hà Nội, bộ Lao động-Thương binh và Xã hội (LĐ-TB&XH) tổ chức diễn đàn đa phương Thúc đẩy bình đẳng giới trong kỷ nguyên số và hội nhập.
Tham dự diễn đàn có Thứ trưởng bộ LĐ-TB&XH Nguyễn Thị Hà, cùng đại diện các bộ, ngành, các tổ chức quốc tế, tổ chức phi Chính phủ, các doanh nghiệp, viện nghiên cứu, nhà khoa học…
Diễn đàn nhằm thảo luận những vấn đề mới phát sinh về bình đẳng giới, xác định những thách thức và bàn về các giải pháp khai thác tối đa các cơ hội nhằm thúc đẩy bình đẳng giới trong kỷ nguyên số và hội nhập ở Việt Nam.
Việt Nam là quốc gia xóa bỏ khoảng cách giới nhanh nhất
Theo đó, thông tin tại diễn đàn có nêu Việt Nam được các tổ chức quốc tế đánh giá là quốc gia xóa bỏ khoảng cách giới nhanh nhất trong 20 năm qua. Tình trạng bất bình đẳng giới của Việt Nam đã được cải thiện nhanh thể hiện ở việc chỉ số phát triển giới (GDI), chỉ số khoảng cách giới (GGI) và chỉ số bất bình đẳng giới (GII) đều ở mức khá tốt.
Theo báo cáo phát triển con người năm 2016, chỉ số GII của Việt Nam là 0,337, xếp thứ 71/188 quốc gia; chỉ số GGI là 0,700 xếp thứ 65/183 quốc gia; và chỉ số GDI là 1,010 thuộc nhóm 1 trong 5 nhóm (188 quốc gia) xếp hạng về bình đẳng giới trong giá trị chỉ số phát triển con người.
Phát biểu khai mạc diễn đàn, Thứ trưởng bộ LĐ-TB&XH Nguyễn Thị Hà cho hay: “Những năm qua, hệ thống pháp luật, chính sách của Việt Nam về thúc đẩy bình đẳng giới không ngừng được xây dựng, sửa đổi, bổ sung theo hướng tiến bộ. Bên cạnh đó, các chính sách về giảm nghèo, hỗ trợ khởi nghiệp, tạo việc làm, hỗ trợ người lao động… đều có những ưu tiên dành cho phụ nữ”.
Theo Thứ trưởng Nguyễn Thị Hà, mặc dù đạt được nhiều thành tựu quan trọng song Việt Nam vẫn đối mặt với nhiều thách thức về bình đẳng giới.
Cách mạng 4.0 khiến lao động nữ có nguy cơ mất việc làm
Tại diễn đàn, các đại biểu cho rằng thời kỳ kỷ nguyên số, cách mạng công nghiệp 4.0 với sự ứng dụng rộng rãi các tiến bộ công nghệ Internet vạn vật, trí tuệ nhân tạo, tự động hóa, người máy… dự báo sẽ có những tác động to lớn đến nhiều mặt đời sống, kinh tế xã hội.
Con người sẽ được giải phóng khỏi những công việc đòi hỏi nhiều sức lực, công việc nặng nhọc, những công việc giản đơn có tính lặp lại, cũng như các công việc nội trợ.
Kỷ nguyên số mở ra nhiều cơ hội để phát triển nền kinh tế tri thức, các hình thức kinh doanh mới và đây cũng được coi là cơ hội để cho cả phụ nữ và nam giới tham gia vào thị trường lao động và thúc đẩy bình đẳng giới thực chất.
Tuy nhiên, tại diễn đàn nhiều đại biểu cũng đưa ra lo ngại của mình rằng các ngành nghề có đông lao động nữ như trồng trọt, bán hàng và phụ bán hàng, dệt may… đặc biệt là các ngành nghề giản đơn, trình độ thấp càng có rủi ro cao, có thể bị mất việc làm vì máy móc, thiết bị tự động hóa thay thế.
Cũng trao đổi thảo luận tại diễn đàn, Phó Chủ nhiệm Ủy ban Về các vấn đề xã hội của Quốc hội Bùi Sỹ Lợi nêu ra những thách thức về vấn đề bình đẳng giới trong kỷ nguyên số và hội nhập:
“Vấn đề bình đẳng giới ở nhiều lĩnh vực, đang tồn tại hết sức khác nhau. Vị thế của phụ nữ vẫn chưa đạt được như kỳ vọng, tỉ lệ nữ tham gia vào các cấp không cao, tỉ lệ đại biểu Quốc hội là nữ giảm, tỉ lệ lãnh đạo là nữ có xu hướng không tăng. Điều kiện của phụ nữ so với nam giới vẫn bị bất bình đẳng. Phụ nữ luôn luôn mất cơ hội, vì phụ nữ còn phải gánh thêm thiên chức gia đình.
Tiếp nữa thách thức về mặt kinh tế cho thấy phụ nữ có thu nhập thấp hơn thu nhập nam giới, phụ nữ chịu tác động của rủi ro lớn hơn nam giới; Trong thời đại công nghệ 4.0 và xu hướng hội nhập, xu hướng đẩy người lao động ra khỏi dây chuyền sản xuất, ra khỏi doanh nghiệp công ty thì tỉ lệ nữ chiếm rất đông, cao hơn nam giới…
Trong vấn đề bất bình đẳng giới, chúng ta đang đấu tranh cho sự phát triển công bằng, bình đẳng nhưng chúng ta đang đứng trước thách thức rất cơ bản và cần phải có giải pháp đi trước đón đầu trong cuộc cách mạng công nghiệp 4.0”.
Đưa ra giải pháp về bình đẳng giới trong kỷ nguyên số và hội nhập, ông Bùi Sỹ Lợi nói thêm, về cơ bản, hệ thống chính sách về bình đẳng giới của nước ta hoàn thiện gồm: Hiến pháp, luật bình đẳng giới, luật phòng chống bạo lực gia đình… Tiếp nữa, cần phải tổ chức triển khai tuyên truyền bình đẳng giới ở cơ sở. Và các chị em phụ nữ cũng không nên ủy mị, dựa dẫm như vậy bình đẳng giới mới được phát huy có hiệu quả.
Và để lao động nữ đáp ứng được những đòi hỏi trong thời kỳ kỷ nguyên số, TS. Đào Quang Vinh, Viện trưởng viện Khoa học lao động và xã hội (bộ LĐ-TB&XH) cho rằng: “Lao động nam và nữ chỉ có thể tận dụng được các cơ hội của kỷ nguyên số và hội nhập khi họ được trang bị vốn nhân lực tốt, được tiếp cận các cơ hội việc làm và kinh doanh bình đẳng, được hỗ trợ từ chính sách công một cách công bằng và hiệu quả.
Đồng thời người lao động cần phải có kỹ năng và khả năng thích ứng với môi trường làm việc linh hoạt. Để có những kỹ năng mới mà tự động hóa không thể dễ dàng thay thế, người lao động rất cần sự trợ giúp từ doanh nghiệp cũng như nhà hoạch định chính sách để họ tiếp cận dần và thích ứng với môi trường làm việc đang thay đổi”.
Kết quả nghiên cứu tại Việt Nam, trong 10 năm tới chỉ ra rằng 70% số việc làm có rủi ro cao, có thể bị thay thế bằng các máy móc, tự động hóa. Trong đó, rủi ro cao nhất thuộc các nhóm ngành nông, lâm và thủy sản (với 83,3% số việc làm có độ rủi ro cao); có tới 74,4% số việc làm thuộc ngành công nghiệp chế biến và có tới 84,1% số việc làm ngành bán lẻ có độ rủi ro cao.
Đặc biệt, trong số đó ngành dệt may và da giày có rất đông lao động nữ làm việc sẽ chịu tác động mạnh; người lao động có nguy cơ bị máy móc, thiết bị tự động hóa thay thế. Cụ thể hơn là các nghề có độ rủi ro cao như: Trồng trọt với khoảng 13,7 triệu việc làm; chăn nuôi với gần 3,2 triệu việc làm; bán hàng và phụ bán hàng với 6,1 triệu việc làm; thợ may với 770 ngàn việc làm… có thể bị máy móc, hệ thống tự động hóa thay thế, khiên người lao động bị mất việc làm.