Ngân hàng TMCP Việt Nam Thương Tín (VietBank – UPCoM: VBB) được thành lập vào năm 2006 với vốn điều lệ 200 tỷ đồng, đi lên từ một ngân hàng nông thôn ở Sóc Trăng. Tháng 7/2019, cổ phiếu VietBank (mã chứng khoán VBB) chính thức được giao dịch trên thị trường UPCoM.
Trải qua 18 năm, từ một ngân hàng có vốn điều lệ đủ mức tối thiểu theo quy định của NHNN, VietBank ngày nay vẫn thuộc nhóm ngân hàng có vốn điều lệ thấp nhất hệ thống.
Cụ thể, tại báo cáo tài chính hợp nhất kiểm toán 2023, kết thúc ngày 31/12/2023, vốn điều lệ của nhà băng đang là gần 4.777 tỷ đồng, chỉ cao hơn 1 số ngân hàng như KienlongBank (3.653 tỷ đồng), BAOVIET Bank (3.150 tỷ đồng), SaigonBank (3.080 tỷ đồng) và PGBank (3.000 tỷ đồng).
Năm 2023, VietBank đã được NHNN và UBCKNN chấp nhận chào bán 100,3 triệu cổ phiếu cho cổ đông hiện hữu để tăng vốn điều lệ lên 5.780 tỷ đồng thông qua phát hành cổ phiếu cho cổ đông hiện hữu với tỉ lệ 21%. Giá cổ phiếu bán là 10.000 đồng/cổ phiếu.
Ngay sau khi nhận được sự chấp thuận, nhà băng đã tiến hành chào bán cổ phiếu trong thời gian từ ngày 16/01/2024 đến 28/02/2024. Tuy nhiên sau đó, nhà băng đã có động thái gia hạn thời gian mua cổ phiếu đến ngày 22/3/2024 với lí do đưa ra là để tăng khả năng thành công. Hiện nhà băng chưa công bố kết quả đợt chào bán.
Tiền thân nhóm cổ đông sáng lập ra VietBank là các thành viên trong gia đình ông Nguyễn Đức Kiên (thường được gọi là bầu Kiên). Đến năm 2019 nhóm bầu Kiên đã thoái lượng lớn cổ phần của VietBank.
Cụ thể, từ ngày 6/12/2018 đến ngày 6/01/2019, ông Nguyễn Đức Kiên đã bán toàn bộ 6,61 triệu cổ phần sở hữu tại VietBank, tương đương với 2,035% vốn điều lệ ngân hàng.
Cùng thời gian, bố mẹ vợ của bầu Kiên (là bà Nguyễn Thị Kim Thanh và ông Đặng Công Minh) cũng đã bán được hơn 6,4 triệu cổ phần trong tổng cộng 7,4 triệu cổ phiếu đăng ký giao dịch. Theo đó, 2 cá nhân trên chỉ còn nắm giữ 1 triệu cổ phiếu VietBank.
Sau thương vụ thoái vốn, nhóm cổ đông liên quan tới bầu Kiên chỉ còn nắm gần 16 triệu cổ phần tại VietBank, tương đương với 4,64% vốn điều lệ ngân hàng. Trong đó, (vợ bầu Kiên), nắm giữ gần 15 triệu cổ phiếu, tương đương tỉ lệ sở hữu 4,608%.
Về tình hình kinh doanh, năm 2019, kể từ thời điểm VietBank lên sàn UPCoM, ngân hàng ghi nhận khoản lợi nhuận trước thuế của ngân hàng đạt 613 tỷ đồng, tăng 53% so với cùng kỳ, đạt 114% so với kế hoạch.
Dù vậy, ngay năm sau đó, lợi nhuận trước thuế của nhà băng đã sụt giảm 34% so với năm 2019 xuống còn đạt 403 tỷ đồng. Nguyên nhân chủ yếu do thu nhập lãi thuần giảm mạnh 53%, chỉ đạt 573 tỷ đồng trong năm 2020.
Năm 2021 là cột mốc đánh dấu tổng tài sản của VietBank chính thức vượt mốc 100.000 tỷ đồng, đạt 103.780 tỷ đồng tại thời điểm cuối năm.
Đáng chú ý, từ thời điểm lên sàn đến nay, nợ xấu của VietBank liên tục phình to. Cụ thể, năm 2019, nợ xấu nội bảng là nhà băng là 539 tỷ đồng. Tỉ lệ nợ xấu trên dư nợ cho vay khách hàng tăng từ 1,25% của năm 2018 lên 1,32%.
Cuối năm 2020, nợ xấu của VietBank là 785 tỷ đồng, tăng 46% so với đầu năm. Theo đó, tỉ lệ nợ xấu trên tổng dư nợ cho vay tăng từ 1,32% lên 1,75%.
Đến cuối năm 2021, dư nợ xấu của ngân hàng trong năm qua tăng mạnh 135% lên 1.845 tỷ đồng, chủ yếu tăng tại nợ nhóm 3 (nợ dưới tiêu chuẩn) và nợ nhóm 4 (nợ nghi ngờ). Tỉ lệ nợ xấu nội bảng leo thẳng từ mức 1,75% lên 3,65% và tỉ lệ này tiếp tục kéo dài đến hết năm 2022.
Mới đây nhất, năm 2023, VietBank ghi nhận thu nhập lãi thuần đạt gần 2.000 tỷ đồng, tăng 10,4% so với năm 2022. Nhà băng báo lãi ròng trước thuế hơn 812 tỷ đồng, lãi sau thuế tương ứng đạt 647 tỷ đồng, tăng 24% so với năm 2022 nhờ giảm chi phí dự phòng rủi ro tín dụng xuống còn 111,3 tỷ đồng, giảm 63% so với năm trước.
Mặc dù vậy, năm 2023, VietBank đặt mục tiêu lãi trước thuế 960 tỷ đồng. Như vậy, kết thúc năm, nhà băng này mới chỉ thực hiện được 85% chỉ tiêu lợi nhuận đề ra.
Tại thời điểm ngày 31/12/2023, tổng tài sản của VietBank ghi nhận ở mức 138.258 tỷ đồng, tăng 24% so với đầu năm. Trong đó, tiền gửi tại NHNN là 9.408 tỷ đồng, tăng gấp 5 lần, tiền gửi tại TCTD khác là 26.548 tỷ đồng, tăng 53% và cho vay khách hàng là 80.754 tỷ đồng, tăng 27% so với đầu năm.