Xen kẽ trong những mảng ký ức về sự tàn khốc của chiến tranh và ngục tù, chúng tôi đã được nghe vợ chồng ông Hai Thông tâm sự rất cảm động về chuyện bức ảnh và 8 câu thơ tình bị thất lạc gần nửa thế kỷ. Đó chính là bức ảnh của bà Mai Thị Liễu được ông Hai Thông gìn giữ trong khoảng thời gian vượt ngục để tìm đường về Trung ương cục miền Nam. Vì quá nhớ thương người vợ và cha mẹ ở quê ông Hai Thông đã gửi tấm ảnh cho bà Liễu với tám câu thơ ghi sau bức ảnh. Nhưng đúng 45 năm sau bà Liễu mới nhận được kỉ vật mà chồng mình tặng.
8 tháng, viết 8 câu thơ tình tặng người yêu
Ông Nguyễn Văn Thông (SN 1934, còn gọi là Hai Thông, cựu tù nhân tại nhà lao Tân Hiệp, Đồng Nai) sinh ra trong một gia đình giàu truyền thống cách mạng. Ngay từ bé, ông đã phải chứng kiến cảnh mất nước, dân chúng lầm than. Bước sang tuổi 12, ông đi theo tiếng gọi thiêng liêng của Đảng và Tổ quốc. Nhiều năm kháng chiến trường kì cùng đồng đội, vượt qua nhiều khó khăn, gian khổ của ngục tù nhưng ông Hai Thông vẫn không sờn lòng.
Bức ảnh và bài thơ do bảo tàng Đồng Nai tặng lại cho ông bà
Dù bị bắt, bị tù đày qua nhiều nhà lao nhưng ông vẫn một mực trung thành với cách mạng. Để động viên tinh thần cho các anh em trong tù, ông Hai Thông và đồng đội đã vận dụng lời ca, tiếng hát để gợi lại lòng yêu nước trong hàng ngũ binh sỹ. Dù ở cái tuổi gần 80 nhưng ông Hai Thông vẫn còn nhớ như in bài hát được những người tù hát đi hát lại và xem đó là bài ca cổ động. Đó là bài hát "Tù đày đi Phú Quốc" được sáng tác cấp tốc vào ngày 03/02/1956 ở nhà lao Tân Hiệp. Bài hát này có đoạn: "…Này anh lính kia ơi! Nếu yêu dân tộc mình, cùng chung sức đấu tranh ngưng tiếng súng…".
Trong những ngày tháng ông ở trong tù, bà Mai Thị Liễu, vợ sắp cưới của ông ở nhà vừa tham gia du kích địa phương, vừa mong ngóng tin người yêu sau song sắt nhà giam.
Ngày ông dẫn đầu đoàn quân vượt ngục, len lỏi trong rừng, trên đường đi bị địch truy lùng gay gắt, khó khăn không kể xiết. Để quên đi mọi khó khăn các chiến sĩ đã nhắm mắt để hồi tưởng lại hình ảnh của người thân, những dòng thư đầy nước mắt của gia đình gửi khi còn trong ngục tù để tiếp thêm sức mạnh cho mình, tiếp tục cuộc hành trình về với Đảng, với nhân dân.
Kể từ ngày vượt khỏi nhà lao Tân Hiệp, ông Hai Thông cùng đồng đội phải sống lay lắt trong rừng suốt 8 tháng liền. Ông Hai Thông nhớ lại: "Những ngày trong rừng, bụng lúc nào cũng đói cồn cào. Không còn cách nào khác tôi và đồng đội hái lá cây, bắt côn trùng để ăn. Đến nỗi có một lần đang đi qua suối cả đoàn đói quá đành nhổ hết rong bám trên đá mà nhai ngon lành. Thế nhưng, ngước lên thì thấy đôi mắt của những người tù vượt ngục lại rơm rớm khi nghĩ về quê hương, về tổ chức".
Trong hoàn cảnh vô cùng khắc nghiệt ấy, tưởng chừng sẽ không có ngày trở về với gia đình. Ông Hai Thông với ánh mắt đượm buồn gợi lại những tháng ngày gian khổ đã qua: "Hầu hết anh em trong đoàn đều là những người trẻ tuổi, lúc nào cũng tràn đầy nhiệt huyết nhưng trong lòng từng có người để thương thầm nhớ trộm.
Trước hoàn cảnh trước mắt vô cùng ác nghiệt, lúc nào cũng bị kẻ thù truy lùng không biết ngày mai sẽ ra sao. Do vậy, nhiều chiến sĩ mang được kỉ vật nào của người thân là mang ra ngắm để quên đi những cực nhọc mà mình đã trải qua". Ông Hai Thông cũng có một kỷ vật như vậy. Hàng ngày ông mang tấm ảnh người yêu mà ông luôn mang bên mình ra ngắm. Nhưng càng ngắm thì ông càng thương nhớ bà Liễu khôn nguôi, với nhiều băn khoăn lo lắng trong lòng, vì bà không hề biết một tin tức gì về ông.
Với niềm đam mê văn chương từ nhỏ, dọc đường đi ông Hai Thông đã viết ra những vần thơ từ tận đáy lòng mình vào bức ảnh của người vợ chưa cưới ở quê đang ngóng tin ông từng ngày. Ông Hai Thông xúc động chia sẻ: "Đã 8 tháng kể từ ngày 1/3 đến 1/11/1957, tôi không nhận được tin tức gì về cô ấy và cha mẹ đôi bên. Vì vậy, tôi gửi tấm ảnh của cô ấy mà tôi luôn mang bên mình và 8 câu thơ tôi viết trong 8 tháng về địa phương cho cô ấy: "Trách ai ăn giấy bỏ bìa/Khi thương vội, khi lìa, lìa xa/Trách em ở cảnh quê nhà /Phụ người chiến sĩ xông pha chiến trường/Giờ đây mỗi đứa một đường/Duyên ta cách trở tang thương tình đầu/Liễu ơi! Em có ưu sầu?/Quên câu ước hẹn ban đầu hỡi em".
Vợ chồng ông Hai Thông, bà Liễu hiện nay
Hành trình lưu lạc của bức ảnh
Qua trao đổi chúng tôi được biết, 8 câu thơ viết phía sau bức ảnh của bà Mai Thị Liễu được ông Hai Thông sáng tác trong suốt những ngày sống trong rừng. Mỗi tháng, ông Hai Thông làm một câu thơ, sau đó, ông gửi tấm ảnh cho những người dân địa phương đi rừng mang về trao tận tay cho người vợ sắp cưới của mình. Tuy nhiên bức ảnh này đã không đến được tay bà Liễu. Và rồi hết năm này qua năm khác, kết thúc chiến tranh, hòa bình lập lại, bà Mai Thị Liễu vẫn không hề hay biết số phận của bức ảnh và những câu thơ chất chứa đầy cảm xúc mà người lính Nguyễn Văn Thông ngày nào viết tặng.
Bà Mai Thị Liễu tâm sự: "Sau cuộc vượt ngục, tôi và gia đình cứ tưởng ông ấy đã ra đi mãi mãi trước sự truy bắt ráo riết của kẻ thù. Phải đến gần một năm sau, ông ấy mới trở về tới nhà. Rồi chúng tôi tổ chức đám cưới. Trong bữa cơm đạm bạc thời chiến, hai vợ chồng tâm sự và ông có nói là thời gian vượt ngục ở trong rừng đã gửi ảnh và thơ cho tôi. Lúc đó tôi mới ngớ người, vì tôi chẳng nhận được bức ảnh hay lá thư nào cả. Hai vợ chồng cứ nghĩ chắc do chiến tranh nên bức ảnh đã bị mất, hoặc thất lạc đâu đó. Tôi cũng không hi vọng là sẽ tìm lại được tấm chân tình qua bức ảnh mà chồng dành cho mình nữa".
Tình cờ vào năm 2002, hai vợ chồng ông Hai Thông đi thăm nhà cô em gái ruột là bà Nguyễn Thị Kim Anh, đã vô tình nhìn thấy bức ảnh cách đây 45 năm mà ông Hai Thông gửi cho bà Liễu để trên bàn khách nhà cô em gái. Nhìn bức ảnh cách đây gần nửa thế kỷ cả hai vợ chồng ông Hai Thông vừa bất ngờ, lại vừa rộn lên những xao xuyến khó tả. Ông Thông xúc động như gặp lại được cố nhân sau bao nhiêu năm xa cách. Thì ra người đưa ảnh đã trao nó cho em gái ông, chứ không phải cho người trong bức ảnh.
Ông Hai Thông giải thích cho chúng tôi về cuộc hội ngộ bất ngờ của hai vợ chồng với bức ảnh rằng: "Sở dĩ cô Kim Anh nhận được bức ảnh này vào cuối năm 1957, nhưng không trao tận tay cho bà Liễu, vì mỗi lần nhìn bức ảnh của chị dâu và những dòng chữ của anh trai, cô Kim Anh lại nhớ tới người chồng đã bị bắt đày ra Côn Đảo và đã hi sinh của mình nên không đưa lại cho chị dâu. Cô ấy muốn giữ bức ảnh lại cho riêng mình, tự an ủi rằng chồng mình ở Côn Đảo cũng nhớ thương mình như vậy".
Từ ngày chồng hi sinh, bà Kim Anh luôn sống trong sự cô đơn và suy sụp. Nhờ có kỉ vật thiêng liêng của ông Hai Thông gửi cho vợ nên bà Kim Anh đã có những kí ức đẹp về chiến tranh, có sự hy vọng dù mong manh về chồng mình. Mỗi khi nhớ chồng, bà lại đem tấm ảnh có những vần thơ xúc động của anh trai mình ra đọc, lòng bà lại dấy lên những cảm xúc thân thương, gần gũi về người chồng đã hy sinh vì đòn roi của kẻ thù.
Người có duyên với ngày mùng 1 Ông Hai Thông vui vẻ chia sẻ với chúng tôi: "Có lẽ là do ngẫu nhiên, hoặc có thể là tôi có duyên với ngày đầu tháng, nên đời tôi có một số sự kiện gắn với ngày mùng 1. Ngày tôi sinh ra vào ngày mùng 1. Ngày tôi gửi bức ảnh và những dòng thơ cho vợ cũng là ngày là mùng 1. Và khi hai vợ chồng tôi tìm lại được kỉ vật bị thất lạc 45 năm cũng đúng vào ngày mùng 1". |
Quyên Triệu - Hương Lam