Vật vã đấu tranh với tạo hóa
Những điều mà PGS.TS Trần Thiết Sơn, Trưởng khoa Phẫu thuật tạo hình (BV Sanh Pôn) nói về “cô” bệnh nhân mà chính ông cùng êkip phẫu thuật của mình trực tiếp phẫu thuật, đó là nghị lực phi thường, sự quyết tâm, khát vọng để vượt qua những lần “cắt bỏ một phần giới tính”.
Rất nhiều năm kinh nghiệm, với sự dày dặn về chuyên môn, tay nghề, đối với PGS.TS Trần Thiết Sơn, đây không phải là lần đầu tiên ông “dao kéo” cho những bệnh nhân kém may mắn.
“Về y học, đó là một dạng bệnh lý. Ở xã hội phương Tây, sự đi trước một bước về khoa học y khoa, tâm lý xã hội, định kiến xã hội, những người mắc phải bệnh lý này dù sao cũng may mắn hơn rất nhiều so với những bệnh nhân người Việt. Xã hội phương Đông, dư luận xã hội nhiều khi là rào cản vô hình nhưng cực kỳ vững chắc làm triệt tiêu nghị lực của những người không may mắc bệnh” – BS Sơn trải lòng.
Trong khoảng thời gian ấy, “khách hàng” của Khoa gần như “đặc biệt” nhất trong Bệnh viện Xanh – pôn, phần lớn là những bệnh nhân bị khiếm khuyết về giới tính, bộ phận sinh dục…
Đội ngũ cán bộ, bác sỹ ở đây đã làm hồi sinh cho rất nhiều số phận, nhiều cuộc đời, trong đó có P…
Trong tiềm thức của ông Sơn, bệnh nhân N.T.P vẫn là một trường hợp khá đặc biệt: Những bệnh nhân đến với khoa, phần lớn đã ở tuổi trưởng thành, nhưng người có độ tuổi cao nhất là tuổi 36 (bệnh nhân N.T.P 36 tuổi – p.v).
Với y học, những bệnh nhân mắc khiếm khuyết về giới tính, sinh lý trong độ tuổi nói trên, sự can thiệp của dao kéo… độ rủi ro và khó khăn hơn rất nhiều so với những trường hợp được phát hiện ngay từ đầu.
“Tại các bệnh viện lớn như Bệnh viện Nhi, bệnh viện Việt Đức…, những bệnh nhân ngay từ lúc sơ sinh phát hiện kịp thời, việc phẫu thuật tạo hình dễ dàng hơn, vì nó liên quan tới sự phát triển sau này. Một cái cây ngay từ khi mới trồng có biểu hiện gì khác biệt, nếu can thiệp sớm sẽ dễ dàng, thuận lợi hơn khi cái cây đó đã phát triển, trưởng thành…” – bác sĩ Sơn nói.
P. là trường hợp đầu tiên chuyển về giới nam.
Gần bốn năm trước, N.T.P tìm đến khoa Phẫu thuật tạo hình. Thời điểm đó, P. đã tốt nghiệp đại học, đã đi làm một thời gian và cũng đã bước sang tuổi 32, độ tuổi với nhiều người khác đã khá ổn định về mặt gia đình, thực hiện thiên chức duy trì nòi giống, thực hiện thiên chức công dân đối với xã hội.
Một “manly” ẩn trong hình hài một cô gái: có ngực, dù không to, chỉ nhu nhú như một bé gái trong độ tuổi 15, bộ phận sinh dục “không rõ ràng”, vẫn có buồng trứng, giọng nói đàn ông, khuôn mặt góc cạnh, tóc tém, chân tay khuềnh khoàng…
Quan trọng nhất, đó là trong tâm lý của P., bao giờ cũng có tư tưởng đối nghịch: sự đấu tranh “chống chọi” lại chính hình hài mà mình đang hiện hữu, với “bản chất” thực của con người bên trong…
“Lần đầu tiên, chúng tôi tiến hành phẫu thuật cắt bỏ phần ngực của P. Đó là việc không khó khăn. Những lần tiếp theo, cắt bỏ buồng trứng, tái tạo bộ phận dương vật, theo dõi những biến chuyển đối với một “con người mới”… Không được vội vàng, tiến hành tuần tự từng bước, và cực kỳ thận trọng” – bác sĩ Sơn tâm sự.
Theo ông Sơn, căn bệnh mà P. phải hứng chịu cũng giống như rất nhiều người kém may mắn khác, trong y học gọi tên là “nam lưỡng giới giả nữ”, biểu hiện của nhiễm sắc thể XY.
Do một số lệch lạc trong quá trình phát triển, cơ quan sinh dục nam không phát triển dẫn đến các biểu hiện “nhi hóa” tinh hoàn, tinh hoàn “ngủ” không chịu phát triển dưới tác động của hóoc môn, toàn bộ giới tính nam ngừng hoạt động.
Thay thế vào đó là toàn bộ cơ quan sinh dục phụ của nữ phát triển, chính vì vậy mà bề ngoài, những người này giống như một phụ nữ thực sự…
“Những biểu hiện như thế, người bệnh thường cam chịu một mình, ít có sự chia sẻ với người thân, bạn bè xung quanh vì những mặc cảm. Nếu như họ không có nhận thức, thì điều đó càng tồi tệ hơn bao giờ hết…”.
Phẫu thuật cắt bỏ “cặp nhũ hoa nửa vời” xong, P. tiếp tục công việc là phiên dịch bên Đài Loan. Ở đó, P. tiếp tục đến bệnh viện Đài Loan phẫu thuật phần sinh dục.
Tuy nhiên, bên Đài, mong muốn của P. không toàn vẹn. Cậu lại tiếp tục trở lại viện Xanh-pôn để PGS.TS Trần Thiết Sơn “trả lại con người” cho mình…
Ông Sơn bảo, “quan trọng nhất đối với người bệnh, đấy là khát vọng, sự quyết tâm. Không ai chán nản, thiếu nghị lực… trong hành trình tìm lại chính mình. Khi họ đã vượt qua chính họ, thì xã hội sẽ có cái nhìn cảm thông, hòa đồng. Bởi một lẽ, đó là một căn bệnh, ai sinh ra cũng muốn được hoàn hảo, nhưng tạo hóa không cho họ niềm hạnh phúc giản đơn đó, thì họ phải tự mình đi tìm cho chính mình…”.
Chuyện cấy "của quý" cho nữ sinh chuyển giới
Câu hỏi mà ai cũng muốn có lời giải đáp, đấy là sau khi trở lại đúng giới tính, những trường hợp như N.T.P có thể lập gia đình hay không, nhu cầu sinh lý, tình cảm… của anh có được đáp ứng như một người bình thường?
Ông cho biết, trước khi phẫu thuật lần thứ ba (tạo hình dương vật), P. đang làm việc bên Đài Loan.
Cậu đã có người yêu – một người hiểu bệnh lý của P., và quan trọng hơn hết, cô bạn gái ấy cảm thông và yêu P. thật lòng.
“P. nói sẽ tiếp tục sang Đài Loan, và sẽ kết hôn với người yêu của cậu” – BS Sơn cho biết.
“Mẹ của P. sau khi đón con mình về nhà (cũng là lúc bản thân bà và gia đình đã lấy lại được trạng thái cân bằng tâm lý, không còn bị sốc hay mặc cảm đối với quyết định “chuyển giới” của P.), đã rất hạnh phúc nói với chúng tôi: bà sinh ra có hai người con, một trai một gái (trên P. là anh trai). Bây giờ, bà có hai người con trai”.
Hình hài sau khi chuyển giới của P.
Sinh ra trong một gia đình nề nếp, bố mẹ là giáo viên, anh em P. từ nhỏ đã được sống trong môi trường gia đình có giáo dục.
Bản thân P. không ăn chơi đua đòi, không lệch lạc về suy nghĩ. Tốt nghiệp ĐH Sư phạm khoa tiếng Trung, P. sang Đài Loan làm phiên dịch – điều đó cũng cho thấy sự chín chắn, tự lập, rất nghiêm túc và có trách nhiệm với bản thân của anh.
Các nước trên thế giới như Thái Lan, việc phẫu thuật, can thiệp dao kéo để tạo hình, chuyển đổi giới tính… không còn xa lạ.
Sự phát triển của y học cho phép thực hiện nhiều ca khó khăn, tuy nhiên, dù thành tựu đó có đến đâu đi nữa cũng không thể “cưỡng” được quy luật của tạo hóa, đó là khả năng sinh sản, duy trì nòi giống.
Vẫn câu chuyện của PGS Trần Thiết Sơn: khoa Phẫu thuật tạo hình đã làm một dương vật giả cho P., và đã cấy ghép thành công: một vạt da vừa đủ được lấy từ đùi trái, cuộn lại làm thân dương vật, đầu dương vật và niệu đạo.
Phần da che phủ dương vật được huy động từ da môi lớn và môi bé. Dương vật được nuôi sống bằng một mạch máu lấy từ đùi và bẹn của bệnh nhân. Dương vật có cảm giác ngay sau khi tạo hình.
Quá trình điều trị cho P., ông Sơn đã cẩn trọng lưu giữ những bức ảnh chụp theo dõi diễn biến của bệnh nhân thành một file ảnh trong máy tính cá nhân.
Từ tốn cho chúng tôi xem những hình ảnh này, ông chứng minh một cách thuyết phục nhất về những điều mình vừa nói: P. đã đi tiểu được qua “đường dẫn” mới. Một thời gian nữa, công đoạn cấy ghép tinh hoàn cho P. sẽ được tiến hành.
“Tiêu chí đối với những dương vật “nhân tạo”, đó là hình dáng thẩm mỹ; mang lại cảm giác, hưng phấn và thực hiện được chức năng tiểu tiện. Các bác sỹ cũng sẽ cấy thể hang để cho “cậu nhỏ” này cương cứng, tuy nhiên, nó chỉ “mặc định” một kích thước chứ không “co – giãn” như bình thường” - BS Sơn nói.
Trước ca phẫu thuật xử lý bệnh của P., khoa Phẫu thuật Tạo hình bệnh viện Xanh-pôn đã tiến hành xử lý năm trường hợp mắc hội chứng không rõ ràng về giới tính.
Cả năm trường hợp này đều chuyển về giới nữ, P. là trường hợp đầu tiên chuyển về giới nam.
“Những bệnh nhân này đều là những người trưởng thành, tuổi từ 18 đến trên dưới 30 tuổi. Một “cô” sau khi chuyển về giới nữ đã kết hôn. Bây giờ, cả hai vợ chồng cô này đã đi xuất khẩu lao động” – BS Sơn cho biết.
“Trong quan hệ tình dục, những người chuyển giới vẫn có được những hưng phấn, cảm giác thực thụ như bình thường, họ đều nhận được khoái cảm. Song, họ không thể sinh sản để tự duy trì nòi giống. Như trường hợp của P., nếu muốn có con, họ sẽ phải cấy tinh trùng của một người đàn ông khác, vì cơ thể P. vẫn có buồng trứng, không có tinh hoàn…
Đối với những trường hợp giới tính không rõ ràng chuyển về nữ, thì chuyện “giữ giống” dễ dàng hơn, vì có thể lấy tinh trùng của người chồng để nhờ người khác mang bầu hộ, hoặc thụ tinh ống nghiệm”.
Theo BS Sơn, điều quan trọng nhất, đó là sự cảm thông của xã hội. Nó cũng là một dạng bệnh lý, và y học có thể điều trị. Ở Việt Nam, những bệnh nhân mắc hội chứng này không ít.
Tuy nhiên, chỉ bản thân họ và những người sinh thành ra họ biết điều đó, họ tự cam chịu một mình, họ không dám chia sẻ với ai và cũng không biết điều trị ở đâu. Đó là những thiệt thòi rất lớn.
Theo Vietnamnet