Nguyễn Huệ (1753- 1792) là cái tên khi mà chưa ai được biết về tài thao lược binh quyền của vua Quang Trung. Sau này, cái tên này được thay thế bằng Quang Trung Hoàng đế, vua Quang Trung hay Bắc Bình Vương. Ông là vị Hoàng đế thứ hai của nhà Tây Sơn, sau Thái Đức Hoàng đế Nguyễn Nhạc. Từ xưa, Quang Trung là một trong vị vua được đánh giá là toàn tài (mà nay áo vải cờ đà/Giúp dân cứu nước xiết bao công trình…). Ông có chính sách về chính trị tài giỏi với nhiều cải cách xây dựng đất nước. Hơn thế nữa, vua Quang Trung là nhà quân sự xuất sắc trong lịch sử Việt Nam với những trận đánh trong nội chiến và chống ngoại xâm mà chưa hề biết thất bại. Do có nhiều công lao, ông được xem là người anh hùng áo vải của dân tộc Việt Nam.
Vua Quang Trung chỉ huy quân chiến đấu
Vị tướng “bách chiến bách thắng”
Tương truyền Tây Sơn tam kiệt gồm ba anh em ruột là Nguyễn Nhạc, Nguyễn Huệ, Nguyễn Lữ. Ba người này được lưu truyền là rất giỏi võ nghệ và khai sáng ra một số võ phái Bình Định. Nguyễn Huệ khai sáng Yến Phi quyền, Nguyễn Lữ sáng tạo ra Hùng Kê quyền. Và cả ba anh em Nguyễn Huệ sáng tạo ra Độc Lư Thương. Tây Sơn Tam kiệt có vai trò rất lớn cho sự hình thành và phát triển võ phái Tây Sơn Bình Định. Họ không những là người sáng tạo ra các võ phái mà còn là những người cải cách các bài quyền, bài binh khí để truyền dạy cho ba quân trong giai đoạn đầu khởi nghĩa.
Năm Tân Mão (1771), Nguyễn Nhạc cất binh khởi nghĩa, xây dựng căn cứ chống chính quyền tại Tây Sơn (Bình Định). Trong giai đoạn xây dựng thế lực, Nguyễn Huệ đã giúp Nguyễn Nhạc xây dựng kinh tế và huấn luyện quân sự. Sau hai năm khởi nghĩa, vào năm Quý Tỵ (1773), anh em Nguyễn Huệ hạ được thành Quy Nhơn. Từ đó, quân Tây Sơn đánh ra các vùng lân cận. Đến cuối năm 1773, họ kiểm soát được từ Quy Nhơn ra đến Bình Thuận. Đoàn quân “bách chiến bách thắng” này đã làm suy yếu chính quyền chúa Nguyễn. Lúc bấy giờ, Nguyễn Huệ mới tròn 20 tuổi. Ông được Nguyễn Nhạc cử làm chủ tướng mang quân vào Nam. Từ đây, con đường binh nghiệp và tài năng của Nguyễn Huệ càng được khẳng định.
Những chiến dịch tấn công Gia Định (TP. HCM bây giờ) của quân Tây Sơn đều là những chiến dịch lớn, đặc biệt là khi có Nguyễn Huệ tham gia. Trận đánh năm Đinh Dậu (1777) tiêu diệt chính quyền chúa Nguyễn ở đàng trong đã ghi dấu ấn đậm nét của ba anh em Nguyễn Huệ. Năm Mậu Tuất (1778), Nguyễn Nhạc lên ngôi hoàng đế, lấy hiệu là Thái Đức. Ngay lập tức, Nguyễn Huệ được phong là Long Nhương tướng quân. Lúc bấy giờ, Nguyễn Ánh cũng được nhà Nguyễn phong làm chúa (1762- 1820) và đem quân chiếm lại Gia Định.
Đến tháng 3/1782, Nguyễn Huệ cùng Nguyễn Nhạc mang quân thủy bộ Nam tiến, phá tan quân Nguyễn. Nguyễn Ánh bỏ chạy về Hậu Giang, sau đó chạy ra Hà Tiên rồi lẩn trộn tại đảo Phú Quốc. Bị quân Tây Sơn truy kích đến cùng, cuối cùng Nguyễn Ánh chạy sang Xiêm cầu viện. Nguyễn Huệ đã cho bố trí trận địa và nhử cho quân Xiêm đến Rạch Gầm - Xoài Mút (ở phía trên TP. Mỹ Tho) để đánh một trận lớn tiêu diệt quân Xiêm. Chiến thắng Rạch Gầm- Xoài Mút của quân Tây Sơn do Nguyễn Huệ chỉ huy khiến quân Xiêm khiếp đảm. Từ đó, họ “sợ Tây Sơn như sợ cọp”.
Trong khi đó ở Bắc Hà, chúa Trịnh ngày càng suy yếu, Nguyễn Nhạc quyết định đánh chiếm Phú Xuân (Huế). Năm Bính Ngọ (1786), Nguyễn Huệ được cử làm tổng chỉ huy đem quân ra Bắc tiêu diệt quân chúa Trịnh. Tháng 4 năm Mậu Thân (1788), vua Lê Chiêu Thống bỏ kinh đô sống lưu vong. Nguyễn Huệ lại đem quân ra Bắc lần thứ hai tiêu diệt Vũ Văn Nhậm, sau đó Nguyễn Huệ rút quân về Phú Xuân.
Vua Lê Chiêu Thống chạy sang nhà Thanh cầu cứu. Lập tức Càn Long (1711- 1799) sai Tôn Sĩ Nghị đem 29 vạn quân vượt ải Nam Quan tiến vào Đại Việt. Trước tình hình trên, Nguyễn Huệ quyết định lên ngôi Hoàng đế, lấy niên hiệu là Quang Trung. Ông cất quân ra Bắc tiêu diệt gọn quân Thanh xâm lược trong đầu năm tết Kỷ Dậu (1789).
Đến ngày 29/7 năm Nhâm Tý (1792), Hoàng đế Quang Trung đã đột ngột qua đời, hưởng dương 40 tuổi. Sự ra đi của Nguyễn Huệ là một tổn thất không thể bù đắp cho nhà Tây Sơn. Cơ nghiệp ông để lại không được người thừa kế xứng đáng bảo tồn nên đã nhanh chóng mất về tay Nguyễn Ánh.
Lý giải cuộc đời của Quang Trung theo lá số tử vi
Theo tử vi phương Đông, Hoàng đế Quang Trung có sao Thất Sát miếu địa thử mệnh, mà mệnh của ông lại ở cung thân, thuộc Kim. Các sao chiếu mệnh của vua Quang Trung thuộc Thất Sát, Tham Lang, Phá Quân. Thuộc cánh sát phá liêm tham nghĩa là cốt cách của một võ tướng. Cộng với hoàn cảnh xuất thân ở Bình Định là nơi đất võ và mang mệnh Kim nên nó cũng phù hợp với sự phát triển của một võ tướng. Ở cung Nô Bộc (bạn bè, người dưới quyền) có thiên cơ ở vị trí đắc địa, nên Quang Trung có rất nhiều người tài phò tá, giúp đỡ.
Hoàng đế Quang Trung là con người có rất nhiều tham vọng. Bởi cung tài của ông có sao Tham Lang vượng địa. Mà cung tài của ông lại ở cung Thìn (Thổ), một trong bốn cung tứ mộ ( Thìn- Tuất- Sửu- Mùi) nên sau này ông đã tự xưng là hoàng đế. Ở cung Thê (vợ) của Quang Trung có sao Liêm Trinh vượng địa cộng với Hữu Bật và sao Thai nên ông có rất nhiều vợ. Tuy nhiên cung Phúc Đức của Quang Trung có sao Đà La Hóa Kỵ lại gặp sao Tuần án ngữ, nên theo lá số tử vi thì tuổi thọ của ông không dài. Năm Nhâm Tý (1792) là năm Quang Trung mất, thuộc Mộc, khắc với bản mệnh của ông là Thổ. Sau khi ông mất, cuối năm Nhâm Tuất 1802 triều đại nhà Tây Sơn đã hoàn toàn sụp đổ.
Cuộc đời của Hoàng đế Quang Trung gắn với nhiều trận đánh, với tài thao lược tài ba. Ngoài ra, ông còn đưa ra những cải cách cho phát triển kinh tế nên được một số sử gia đánh giá là đã đóng góp quyết định vào sự nghiệp thống nhất của triều đại Tây Sơn. Tuy chỉ sống 40 năm nhưng ông đã lập được nhiều chiến công hiển hách. Sau hơn 20 năm liên tục chinh chiến và trị quốc, ông là vị tướng số một trên thế giới chưa thua một trận nào. Ông mất đi để lại nhiều dự định dang dở cũng như sự nuối tiếc cho triều đình nhà Tây Sơn và nhân dân cả nước.
Dĩ nhiên, việc lý giải cuộc đời của hoàng đế Quang Trung qua lá số tử vi theo quan niệm của người Á Đông đơn thuần chỉ là một cách tiếp cận mang tính chất tham khảo. Nó đem đến cho bạn đọc một cách nhìn thú vị xuất phát từ tình cảm yêu mến của các thế hệ người Việt đến với vị anh hùng áo vải của dân tộc.
Nhiều giả thuyết về cái chết của vị vua toàn tài Sau khi vua Quang Trung chết, rất nhiều giả thuyết được đặt ra. Có một giả thuyết được truyền lại nhiều nhất là: Một buổi chiều thu năm 1792, vua Quang Trung đang ngồi làm việc, bỗng hoa mắt, tối sầm mặt mũi, mê man bất tỉnh. Người xưa gọi đây là chứng “huyễn vận’’, còn ngày nay y học gọi là tai biến mạch máu não. Hoàng Lê nhất thống chí cũng ghi lại về cái chết của vị hoàng đế này: Khi Quang Trung giả sang Bắc Kinh gặp Càn Long. Tại đây ông được Càn Long tặng cho chiếc áo có thêu bảy chữ: “Xa tâm chiết trục, đa điền thử”. Dịch ra là: “Bụng xe gãy trục, nhiều chuột đồng”. Theo phép chiết tự, chữ "xa"và chữ "tâm" ghép lại thành chữ "Huệ" là tên của Nguyễn Huệ; "chuột" nghĩa là năm Tý (Nhâm Tý - 1792). Ý của dòng chữ trên áo là Nguyễn Huệ sẽ chết vào năm Tý. Đây là lý do để giả thiết Nguyễn Huệ chết do áo bị yểm bùa tồn tại. Theo sách của Ngụy Tây liệt truyện cho rằng vua Quang Trung chết vì bệnh. Một tài liệu chính sử của Sử quán triều Nguyễn giải thích cái chết của vua Quang Trung như sau: Một hôm, Quang Trung đang ngồi bỗng mặt mày xây xẩm, tối tăm. Vua thấy một ông già đầu bạc từ trên trời xuống, mặc áo trắng, cầm gậy sắt, mắng rằng: “Ông cha người sống ở đất của Chúa, đời đời làm dân Chúa Nguyễn, sao phạm đến lăng tẩm...". Nói xong ông lão cầm gậy đánh vào trán. Quang Trung mê man ngã xuống, bất tỉnh nhân sự. Từ đó, bệnh chuyển nặng...". Dĩ nhiên là cuốn sử quán triều đình Nguyễn – triều đại “tử thù” của Quang Trung giải thích cái chết đột ngột của người anh hùng áo vải một cách hoang đường như vậy là để đề cao nhà Nguyễn. Sách Tây Sơn thực lục cũng có ghi "Huệ mắc bệnh nặng, chữa không khỏi...". Và, sau khi Quang Trung mất, vào tháng một năm Càn Long thứ 58 (1793), Quách Thế Huân cũng báo cáo với Càn Long: "Quang Trung đã chết vì bệnh". Một giáo sĩ tên Longer, có mặt ở đàng ngoài vào những thời điểm này đã viết trong một bức thư đề ngày 21/12/1792 là vua Quang Trung chết vì bệnh, nhưng không rõ là bệnh gì. |
Nguyễn Văn Vương