Chương trình Type-056 được khởi xướng vào năm 2010 nhằm thay thế cho loại tàu tuần tra tên lửa Type-073II. Lớp tàu này đang được đóng với tốc độ chóng mặt theo tiêu chí “nhanh - rẻ - bền” đang thịnh hành trong việc phát triển vũ khí tại Trung Quốc.
Chương trình tàu hộ tống Type-056 đang được đóng với tốc độ chóng mặt, có đến 4 nhà máy đóng tàu lớn của Trung Quốc tham gia vào chương trình này. |
Hải quân Trung Quốc đã lên kế hoạch đóng mới 40 chiếc Type-056, hiện tại có 4 nhà máy đóng tàu lớn của Trung Quốc đang tham gia vào chương trình này bao gồm: Nhà máy đóng tàu Hoàng Phố, Vũ Xương và Đại Liên. Chiếc đầu tiên được hạ thủy vào tháng 5/2012, đến thời điểm hiện tại đã có 6 chiếc được hạ thủy và đi vào hoạt động.
Trong 6 chiếc đi vào hoạt động có 2 chiếc mang số hiệu 584, 585 được biên chế hoạt động tại hạm đội Nam Hải phụ trách Biển Đông. Một số chuyên gia nhận định, Hải quân Trung Quốc sẽ sử dụng Type-056 theo kiểu “bầy đàn” lấy sự áp đảo về số lượng để đạt được các đòi hỏi chủ quyền phi lý của mình trên Biển Đông và biển Hoa Đông.
Type-056 được thiết kế với khả năng tàng hình, một xu hướng thịnh hành trong thiết kế tàu chiến và vũ khí trên thế giới. Hai bên mạn tàu được thiết kế dạng tháp nghiêng để giảm độ bộc lộ radar, khu vực chỉ huy được thiết kế theo kiểu hình tháp nhiều cấp.
Tàu có chiều dài 89 mét, chiều rộng 11,6 mét, mớn nước 4,4 mét, lượng giãn tiêu chuẩn 1.300 tấn, đầy tải 1.440 tấn. Thủy thủ đoàn 60 người, tốc độ tối đa 28 hải lý/giờ, phạm vi hoạt động 3.700 km.
Trong khi đó phạm vi hoạt động của Gepard-3.9 là 7.000 km, tàu hộ tống Sigmacó phạm vi hoạt động 6.700 km. Do đó, nhiều khả năng Type-056 gặp nhiều khó khăn khi hoạt động tại các vùng xa xôi của Biển Đông.
Ở cùng vai trò tàu hộ tống Type-056 tỏ ra yếu thế khi so sánh với Gepard-3.9 của Việt Nam cũng như các tàu Sigma của Indonesia, Leiku của Malaysia và Formidable của Singapore |
Vũ khí trên tàu bao gồm: 1 pháo hạm 76mm do Trung Quốc sản xuất dựa trên AK-176 76mm của Nga, phía sau cột buồm được trang bị 2 cụm phóng tên lửa chống hạm YJ-83 với 2 tên lửa/cụm.YJ-83 có tầm bắn tối đa 250 km tốc độ hành trình cận âm, đầu đạn nặng 165 kg.
Đuôi tàu được trang bị một cụm phóng tên lửa hải đối không FL-3000N với 8 tên lửa/cụm. ĐAây là biến thể dùng cho tàu chiến của tên lửa phòng không tầm thấp TY-90. Tên lửa có tầm bắn tối đa 6 km trang bị đầu tự dẫn hồng ngoại.
Ở giữa tàu có 2 pháo 30mm điều khiển từ xa, đuôi tàu có sàn đáp cho 1 trực thăng chống ngầm có thể là loại Z-9C. Về trang bị hỏa lực, Type-056 có cơ số tên lửa chống hạm chỉ bằng một nửa so với tàu hộ tống tên lửa Gepard-3.9 và chỉ bằng ¼ so với tàu tên lửa cao tốc lớp Molniya của Hải quân Việt Nam.
Về vũ khí phòng vệ, Type-056 chỉ được trang bị 1 cụm phóng tên lửa hải đối không tầm thấp FL-3000N với 8 tên lửa cùng 2 pháo nòng đơn 30mm ở giữa tàu. Trong khi đó, tàu hộ tống tên lửa Gepard-3.9 được trang bị 2 pháo bắn siêu nhanh AK-630 với 6 nòng cỡ 30 mm.
Trong khi đó, Gepard-3.9 được trang bị 1 cụm pháo tích hợp tên lửa phòng không Palma, hệ thống Palma bao gồm 2 pháo bắn siêu nhanh AO-18K cùng 8 tên lửa phòng không siêu thanh dẫn bằng laser Sosna-R với tầm bắn hiệu quả 10 km tầm cao 5 km.
Cận cảnh hệ thống vũ khí chống hạm của Type-056 ở trên và Gepard-3.9 ở dưới, số lượng tên lửa chống hạm của Type-056 chỉ bằng một nửa so với Gepard. |
Vũ khí phòng vệ của Type-056 tương đối yếu, rất dễ bị tổn thương bởi tên lửa chống hạm, nhiệm vụ đánh chặn tên lửa chống hạm đè nặng lên vai hệ thống FL-3000N, 2 trạm vũ khí điều khiển từ xa 30mm nòng đơn gần như bất lực với tên lửa chống hạm.
Về hệ thống điện tử, Type-056 được trang bị radar tìm kiếm mục tiêu Type-364, radar này hoạt động ở băng tần G hoặc H, phạm vi tìm kiếm mục tiêu khoảng 100 km, độ cao hoạt động khoảng 8 km.
Trong khi đó, radar Pozitiv-ME của Gepard có phạm vi tìm kiếm mục tiêu 150 km, radar Monolit có phạm vi tìm kiếm mục tiêu ở chế độ chủ động 250 km lên đến 450 km ở chế độ thụ động.
Thế mạnh của Type-056 là nó được sự hậu thuẫn đắc lực của các tàu khu trục khác mà các nước trong khu vực Đông Nam Á không có được. |
Type-056 sử dụng radar điều khiển hỏa lực Type-347 sử dụng cho pháo hạm 76mm và hệ thống FL-3000N, radar này có phạm vi tìm kiếm mục tiêu tối đa 12 km. Tàu hộ tống Gepard-3.9 và tàu tên lửa cao tốc Molniya, Tarantul sử dụng radar điều khiển hỏa lực MR-123 cho pháo hạm Ak-176 76mm và AK-630, radar này có phạm vi tìm kiếm mục tiêu hiệu quả khoảng 30 km.
Hệ thống điện tử của Type-056 chỉ ở mức trung bình, thua kém Gepard-3.9 và cảMolniya về phạm vi tìm kiếm và chị thị mục tiêu. So với các tàu chiến trong khu vực ở cùng tính năng và tải trọng thì Type-056 bị đánh giá dưới cơ so với Sigmacủa Indonesia, Leiku của Malaysia, Gepard-3.9 của Việt Nam, so với kinh hạm Formidable của Singapore thì càng thua xa.
Điểm mạnh duy nhất của tàu hộ tống Type-056 là được trang bị tên lửa chống hạm với tầm bắn khá xa tới 250 km. Mặt khác, loại tàu này được sự hỗ trợ đắc lực của các tàu khu trục hạng nặng khác mà các nước trong khu vực Đông Nam Á không có được. Nên nếu tác chiến một cách độc lập đối chọi với các tàu hộ tống hiện đại khác trong khu vực thì Type-056 dễ dàng bị hạ.
Theo Bưu điện Việt Nam