Những năm tháng mất tích
Nhập ngũ tháng 3/1983 khi 21 tuổi, ông Hào được biên chế vào Đoàn 7704 và tham gia quân tình nguyện sang giúp nước bạn Campuchia. Năm 1984, trong một lần đi kiếm lương thực cho đơn vị, ông Hào cùng 6 chiến sỹ khác của Quân đội Nhân dân Việt Nam bị địch phục kích, đánh bom và may mắn được một gia đình dân tộc thiểu số tại Campuchia cứu chữa.
Khỏi bệnh, ông tập tễnh trở lại địa điểm đóng quân thì được biết đơn vị mình đã chuyển đi nơi khác. Không biết tiếng địa phương, không một đồng tiền dính túi, ông đành quay trở lại nhà người ân nhân xin nương tựa nhờ. Sau này, để trả ơn cứu mạng, ông Hào đã kết hôn với con gái của gia đình ân nhân tên là Khơ Môn. Vì cuộc sống khó khăn, nghèo đói, sau đó người vợ này không may mất sớm.
Vì bị tổn thương não và quá nghèo nên 28 năm sau ngày bị báo tử, ông Hào mới trở về quê hương.
Về phía đại đội 12, tiểu đoàn 4 (trực thuộc Đoàn 7704), cứ ngỡ ông Hào đã hi sinh trong trận tập kích của địch nên làm các thủ tục báo tử về gia đình. Tờ giấy báo từ được gửi về gia đình ông Hào ngày 25/6/1992.
Khi được hỏi, tại sao trong ngần ấy năm lưu lạc không tìm cách về quê, ông Hào ngậm ngùi: “Nỗi nhớ quê hương ám ảnh tôi từ bữa ăn đến giấc ngủ. Có đêm nằm mơ thấy rõ từng vết rêu trên cái cổng tre quê nhà, cả tiếng bà con mình í ới gọi nhau bên bờ ao, giếng nước. Tỉnh dậy thì thấy nước mắt chảy ướt gối từ bao giờ”. Cuộc sống ở vùng sâu, giữa rừng, không có điện thoại, không có bưu điện. Gần như 100% người dân mù chữ nên ông Hào không biết nhờ cậy vào ai để tìm được cách liên lạc về quê nhà.
Trong những lúc tuyệt vọng, ông Hào cũng từng nghĩ đến cái chết để giải thoát “nhưng tôi lại tự nhủ, sống đã chịu cảnh lưu lạc tha hương thì khi chết nhất định tôi phải được chôn ở quê cha, đất tổ. Thế là tôi lại quyết tâm quay về, tiếp tục cố gắng để sống, với hi vọng ngày nào đó sẽ tìm được đường về quê hương...”, ông kể.
Ngày trở về đầy nước mắt
Cuối năm 2011, ông Lê Xuân Vui, em trai ông Hào bất ngờ được một người thanh niên tìm gặp và cho biết đang nắm giữ thông tin về người anh “liệt sỹ” của gia đình. Trong một lần vào rừng tìm gỗ làm nhà, người chú ruột anh đã gặp ông Hào đang sống trong một bản nghèo tại Khsach Laet, xã Onsachambork, huyện Krakor. Mất vài phút trấn tĩnh, ông Vui mới lập cập hỏi được tên, địa chỉ của vị ân nhân.
Ngay ngày hôm sau, điện thoại của ông Vui đổ chuông: “Nhìn vào mã điện thoại lạ, tim tôi đã đập nhanh liên hồi, toàn thân run bắn. Thế nhưng, khi tôi bấm nghe máy và “alo” thì đầu bên dây kia chỉ im lặng. Vài phút trôi qua, chỉ nghe những tiếng nấc nhẹ, rồi tắt máy. Ngay lập tức, tôi gọi lại và hỏi: “Có phải anh Hào người xã Trầm Lộng - Ứng Hòa đấy không?” thì nghe thấy tiếng “ừ, anh Hào đây” bằng giọng lơ lớ, ngọng nghịu. Như không tin vào tai mình, tôi phải yêu cầu anh nhắc lại 3 lần, rồi mừng quá, nước mắt tự nhiên cứ chảy dài ra. Sau khi hỏi vài thông tin thì tôi chắc chắn đến 90% người đầu dây kia là anh trai mình thật”.
5 người em của ông Hào quyên góp tiền để đón người anh và người cháu họ tên Khiêm (đang làm việc tại Bình Phước) nghe thông tin tìm thấy chú, đã tình nguyện “xung phong” thuê xe để đón ông Hào trở về.
Hiện tại, ông Hào làm nghề đồng nát để sống và sau nhiều năm sống trong rừng, ông Hào chỉ ăn được rau luộc và muối. Ông cũng sợ tivi.
Nhớ lại khoảnh khắc gặp lại người thân, anh Khiêm xúc động: “Chú tôi đứng bên vệ đường, thất thểu trong tà áo rách. Lúc chú đi bộ đội tôi mới lẫm chẫm biết đi, ngần ấy năm xa cách chưa một lần được gặp mặt nhưng khi vừa nhìn thấy khuôn mặt chú, đôi mặt ầng ậc nước, hiền từ giống i như khuôn mặt bố tôi, thì hai chú cháu cứ ôm nhau mà khóc...”.
Ngày ông Hào nhập ngũ, người bố của ông đã đưa ông đến tận nơi giao quân, vẫy tay chào và hẹn ngày gặp lại. Sau 28 năm ông Hào tìm về cố hương, bố ông đã nằm dưới ba thước đất. Tay run run thắp nhang lên bàn thờ, ông Hào nức nở như một đứa trẻ: “Bố ơi, con Lê Xuân Hào không kịp báo hiếu bố trọn một ngày, không kịp nhìn mặt bố lần cuối. Nay con trở về quê hương, trở về với anh em, con xin tạ lỗi với bố”.
Gặp nhiều khó khăn vì... sống lại
Do bị “cách ly” trong rừng sâu đã lâu nên mọi sinh hoạt của cuộc sống hiện đại khiến ông Hào lạ lẫm. Đến bữa cơm, người thân gắp thịt ông cứ chối đây đẩy mà chỉ xin ít muối và rau luộc ăn kèm. Nghe tiếng vô tuyến truyền hình ông sợ hãi đến mức “trốn biệt” trong nhà. Đến nhà vệ sinh tự hoại, anh em trong nhà cũng phải thay nhau “hướng dẫn” nhiều lần ông mới thuộc “quy tắc”. Những năm tháng lưu lạc nơi đất khách quê người cũng khiến cho vốn tiếng mẹ đẻ của ông Hào bị mai một. Ông không thể nói trôi chảy tiếng Việt mà chỉ lẩm nhẩm từng câu.
Có lẽ, điều an ủi lớn nhất với người cựu binh là đứa con gái với người vợ quá cố ở Campuchia cũng trở về cùng ông trong hành trình sum họp
Hiện tại để mưu sinh, ông Hào cùng con gái đi thu mua lông gà, lông vịt và bao tải rách để đắp đổi qua ngày. Ngày nhiều nhất kiếm được 1 trăm nghìn, ngày ít thì vài chục bạc, bố con đùm bọc, đắp đổi qua ngày.
Khi được hỏi về mong ước lớn nhất của mình, ông Hào đưa đôi mắt trầm buồn nhìn xa xăm: “Tôi chỉ ước được một lần đi khám bệnh cho khỏi hết chứng đau đầu và đau chân để mỗi khi trái gió trở trời, khỏi phải phiền đến anh em họ hàng. Người thân của tôi ai cũng khó khăn cả...”.
Chứng minh thư mới của ông Hào.
Người cựu binh già nghẹn ngào nhớ lại, thời gian đầu mới trở về ông đến gặp chính quyền để hỏi về thủ tục “làm người còn sống”: “Họ bảo tôi, ông chết rồi, giấy báo tử vẫn còn lưu một bản ở đây, hộ khẩu ông cũng bị cắt rồi, giờ muốn xin lại chúng tôi không đủ thẩm quyền giải quyết!. Rồi họ bảo tôi về. Hết lần này đến lần khác đều thấy, sao để được làm người còn sống mà cũng khổ quá. Tôi đã nóng giận, cởi áo, sắn quần cho họ xem những vết sẹo chi chít, dấu tích của thời trận mạc khói lửa. Tôi bảo họ: Đây, vết sẹo này là tôi bị đạn của địch găm vào, còn vết sẹo này là tôi bắn máy bay địch, bị một mảnh bom văng vào, gây thương tích. Tôi lưu lạc xa quê do bệnh tật vì tôi không có đủ vài triệu bạc thuê xe về, nay về được quê hương, tôi chỉ có ước mơ được công nhận lại là công dân Việt Nam, mà các anh cũng gây khó dễ. Thế mà họ cũng không nghe, họ xua tôi về không thương tiếc”.
Đến tháng 8/2013, ông Hào mới được cầm tấm chứng minh thư nhân dân mang tên mình. Nhớ lại giây phút ấy, ông Hào rưng rưng kể: “Ngày cầm chứng minh thư, có ảnh, tên mình tôi bật khóc như đứa trẻ. Vậy là cuối cùng, niềm mơ ước cuối đời của tôi cũng thành hiện thực. Tôi đã trở về quê hương, được là một công dân Việt Nam theo đúng nghĩa”.
Ngọc Trinh (Tổng hợp)