Sáng ngày 23/7, đại học Quốc gia Hà Nội phối hợp cùng bộ Khoa học & Công nghệ tổ chức hội nghị tổng kết chương trình Khoa học & Công nghệ trọng điểm cấp Nhà nước “Khoa học công nghệ phục vụ phát triển bền vững vùng Tây Bắc” (chương trình Tây Bắc) giai đoạn 2013-2020.
Phát biểu tại hội nghị, ông Nguyễn Văn Bình, Trưởng ban Kinh tế Trung ương đánh giá, Tây Bắc là vùng có nhiều tiềm năng lợi thế trong phát triển kinh tế nhưng cũng là vùng nghèo và khó khăn nhất của cả nước.
“Tôi đánh giá cao đại học Quốc gia Hà Nội, với định hướng “khoa học vị nhân sinh”, đã tập hợp, kết nối có hiệu quả đội ngũ 600 nhà khoa học, hơn 40 cơ quan nghiên cứu trong cả nước để trực tiếp tham gia giải quyết một số vấn đề cơ bản và “nóng bỏng” nhất đang đặt ra trong thực tiễn phát triển, giải phóng tiềm năng, tháo gỡ khó khăn, khai thác các nguồn lực, góp phần tạo nên xung lực mạnh mẽ trong phát triển bền vững vùng Tây Bắc, góp phần cải thiện cuộc sống của đồng bào dân tộc.
Có thể thấy rằng, trải qua 7 năm triển khai, chương trình đã góp phần thực hiện được một số nội dung của Nghị quyết 37”, ông đề cập.
Bên cạnh ghi nhận đánh giá cao sự quan tâm sát sao của bộ Khoa học & Công nghệ cùng một số ban, bộ, ngành trong việc phối hợp với đại học Quốc gia Hà Nội để quản lý, điều hành và tạo mọi điều kiện của các sở, ngành, nhân dân địa phương đồng hành với các nhà khoa học, Trưởng ban Kinh tế Trung ương cũng lưu ý một số nội dung.
Cụ thể, mặc dù có sự đầu tư khá tốt trong nghiên cứu ở giai đoạn 2013 - 2020, nhưng một số nghiên cứu về vùng còn hàn lâm, hiểu biết về vùng chưa sâu sắc, các mô hình được xây dựng chưa có đủ thời gian phát huy hết giá trị, chưa đủ thời gian và nguồn lực tài chính để triển khai xây dựng các dự án chuyển giao có sự tham gia của các địa phương, doanh nghiệp theo hướng vùng và liên kết vùng; những nhiệm vụ trong lĩnh vực nông - lâm cần có thời gian phát triển mở rộng, phát huy đóng góp khoa học công nghệ.
Bên cạnh đó, Tây Bắc là vùng đang đặt ra nhiều vấn đề phức tạp, đó là tình trạng suy thoái và cạn kiệt tài nguyên thiên nhiên,ô nhiễm môi trường, tỉ lệ hộ nghèo cao nhất, chất lượng nguồn nhân lực mức thấp, tệ nạn xã hội, ma túy, buôn bán phụ nữ trẻ em... gia tăng thời gian gần đây...
Điều này hàm ý việc tiếp tục tổ chức triển khai nghiên cứu là xuất phát từ chính nhu cầu thực tiễn của vùng và sự phát triển bền vững của Tây Bắc, cũng chính là sự phát triển bền vững của cả nước.
Đồng thời, trong thời đại 4.0, khoa học và công nghệ, văn hóa trở thành những nguồn lực quan trọng và trực tiếp, quan trọng bậc nhất trong sự phát triển nhanh và bền vững của dất nước, của vùng và địa phương.
Với Việt Nam, đặc biệt là vùng Tây Bắc, để tìm ra lời giải tối ưu, hài hòa cho các bài toán phát triển trước mắt và lâu dài, để phát huy tối đa các tiềm năng và lợi thế nhằm nhanh chóng thu hẹp khoảng cách phát triển so với các nước tiên tiến trong khu vực và trên thế giới, lựa chọn duy nhất là phát huy nguồn lực trí tuệ, nguồn lực con người, tức là dựa vào sức mạnh của khoa học công nghệ và văn hóa.
Cuối cùng, thời gian triển khai chương trình ngắn trong khi địa bàn triển khai lớn, nhiều khó khăn phức tạp.
PGS.TS Nguyễn Kim Sơn, Giám đốc đại học Quốc gia Hà Nội cũng nhấn mạnh: “Sau 7 năm triển khai thực hiện, chương trình hoàn thành mục tiêu đề ra, đóng góp quan trọng trong việc xây dựng, điều chỉnh chiến lược quy hoạch và kế hoạch phát triển nhân lực, kinh tế, bền vững theo hướng bảo vệ môi trường, tài nguyên thiên nhiên, đảm bảo an ninh quốc phòng Tây Bắc, thu hút 40 tổ chức và hơn 600 nhà khoa học tham gia đề tài nghiên cứu khoa học”.
Ông Chu Ngọc Anh, Bộ trưởng bộ Khoa học & Công nghệ khẳng định vai trò chiến lược phát triển, đề ra và khai thác nhiệm vụ từng vùng. Sau khi tổng kết giai đoạn 7 năm của chương trình Tây Bắc, ông cũng cho biết: “Tuy nhiên, kết quả nghiên cứu của chương trình cũng chỉ ra rằng, vùng Tây Bắc chúng ta có nhiều tiềm năng, lợi thế nhưng chưa được khám phá và phát huy tốt nhất, để phục vụ cho phát triển bền vững.
Tây Bắc vẫn là vùng nhiều khó khăn về kinh tế - xã hội, chịu nhiều tác động lớn của biến đổi khí hậu. Trong thời gian tới, việc tiếp tục triển khai các nghiên cứu khoa học và phát triển khoa học công nghệ sẽ góp phần tạo nền tảng, đòn bẩy tri thức, công nghệ, văn hóa và xã hội, qua đó góp phần quan trọng trong phát triển vùng Tây Bắc”.
Một số kết quả nổi bật:
55 đề tài, 3 dự án sản xuất thử nghiệm;
31 đề tài có sự tham gia của doanh nghiệp và địa phương;
21 sản phẩm đăng ký sở hữu trí tuệ; 11 sản phẩm được công nhận độc quyền sáng chế; giải pháp hữu ích và tiến bộ kỹ thuật; 5 sản phẩm được thương mại hóa;
Hơn 20.000 đơn vị sản phẩm thuốc, thực phẩm, thực phẩm chức năng được sản xuất thử nghiệm theo quy chuẩn;
42 mô hình thử nghiệm, mô hình trình diễn phục vụ sinh kế, mô hình phát triển kinh tế - xã hội địa phương.