Xuất thân trong một gia đình danh giá, có cha là một mệnh quan Triều đình, ngay từ khi còn rất nhỏ, Lê Văn Miến đã sớm được tiếp xúc với những sĩ phu yêu nước, biết những chuyện quốc gia đại sự. Ngay từ nhỏ, cậu thiếu niên tên Miến đã sớm tỏ ra là một người có tư chất đạo đức tốt, có kiến thức văn hóa xã hội và cung cách ứng xử cũng rất chuẩn mực. Nhiều điều hay cậu được biết qua lời dạy bảo trực tiếp của cha nhưng nhiều khi thông qua các buổi hầu trà cụ Phan Đình Phùng và cụ Nguyễn Thiện Thuật, kiến thức của cậu được trau dồi.

Chân dùng người thầy Lê Văn Miến. Ảnh: Internet.
Năm 1888, được lệnh của vua Đồng Khánh, cụ Cử Lê Huy Nghiêm (tức cha của Lê Văn Miến) phải cử một người con sang Pháp để học trường thuộc địa. Mặc dù chưa đủ tuổi để đi (năm đó cậu mới 14 tuổi) nhưng vì hai anh trai nhất quyết chối từ “đặc ân” đó nên Miến đã lĩnh ấn thay các anh trong chuyến “chinh Tây”.
Chuyến du học này có ảnh hưởng rất lớn đến sự định hình nhân cách cũng như sự nghiệp của Lê Văn Miến sau này. Mặc dù nhỏ tuổi nhất lớp nhưng kết quả học tập của Miến luôn đứng đầu. Đồng thời, cậu sớm thể hiện tinh thần yêu nước, sự ngang tàn của mình thông qua việc thường xuyên qua lại với Kỳ Đồng Nguyễn Văn Cẩm (một thanh niên yêu nước có khuynh hướng chống thực dân Pháp đang học ở Paris).
Không những vậy, để phản đối việc hiệu trưởng trường Thuộc địa kì thị chủng tộc, thiên vị học sinh người Pháp, Miến đã cầm đầu học sinh các xứ thuộc địa cùng lớp tổ chức bãi khóa, kéo đến Bộ Thuộc địa để đấu tranh cho quyền lợi của mình.

"Bình văn" - bức tranh sơn dầu đầu tiên của hội họa Việt Nam. Ảnh: Internet.
Cũng chính vì “vết nhơ” từ phong trào bãi khóa, Lê Văn Miến đã gặp rất nhiều khó khăn trên con đường học vấn của mình vì một số thành kiến của thầy giáo người Pháp cũng như vì sự theo dõi chặt chẽ của cảnh sát. Tuy nhiên, cậu học sinh người Việt đã vượt mọi trở ngại để hoàn thành tốt tất cả các môn học, định hình được phong cách nghệ thuật cho riêng mình và tốt nghiệp loại ưu.
Nhờ sự cố gắng đó mà mùa hè nào, Lê Văn Miến cũng được đi du lịch đến nhiều nước Châu Âu, tìm hiểu những cái nôi của nền mĩ thuật của các nước đó.
Điều lạ kì đó là chàng thanh niên Lê Văn Miến cố gắng học tập không phải để theo con đường quan lộ mà anh “học để dằn mặt người Pháp”. Và dường như sự “dằn mặt” đó đã thành công với sự vươn lên một cách thần kì của một thanh niên Việt Nam. Lê Văn Miến trở về nước với hai tấm bằng hạng ưu trong tay: một của trường Thuộc địa và một của trường Cao đẳng Mĩ thuật Paris.
Không chọn con đường quan lộ như hai người bạn cùng trên chiếc tàu chinh Pháp (Hoàng Trọng Phu – Tổng đốc Hà Đông và Thân Trọng Huế - Thượng thư bộ Học), Lê Văn Miến xin làm thuê cho nhà in tư nhân Schneider của Pháp. Ông làm công việc ở nhà in này vài năm cho đến khi Đào Tấn – Tổng đốc An Tĩnh mời Miến về làm việc cùng mình.
Năm 1899, trường Trung học Pháp – Việt ở Vinh được thành lập, Lê Văn Miến được cử làm Đốc giáo (ngang với Hiệu trưởng). Trong thời gian làm việc ở ngôi trường này, thầy đã lập ra Hoan Châu học hội, hằng tháng, thầy kêu gọi mọi người cùng nhau góp quỹ để giúp học sinh nghèo có thể theo đuổi được sự học, biểu dương những học sinh xuất sắc.
Không những vậy, thầy còn trích một phần thu nhập của mình để đóng góp vào quỹ Triều Dương thương điếm, giúp các thanh niên sang Nhật học trong phong trào Đông du.
Mặc dù được học tập trong khí quyển Tây học gần chục năm nhưng thầy giáo Miến vẫn kiên quyết giữ lấy hồn Việt. Khi giảng bài, thầy không dùng tiếng Pháp mặc dù tiếng Pháp của thầy rất uyên thâm. Trang phục yêu thích của thầy Miến cũng là bộ áo dài sa đen cùng khăn xếp như những cụ đồ Nho chứ không mặc Âu phục. Có lẽ chính vì giữ gìn, ấp iu được từng giọt hồn Việt, kết hợp với tinh hoa nghệ thuật của phương Tây nên phong cách nghệ thuật cũng như tính cách của thầy Miến luôn có một nét riêng mà ai cũng phải ngưỡng vọng.
Sau bao lần thăng bổng, xuống trầm cùng hoàn cảnh đất nước, đến năm 1921, thầy lại một lần nữa được giữ chức “Hiệu trưởng” của trường Quốc tử giám. Cho dù ở cương vị nào, thầy vẫn luôn giữ gìn truyền thống uống nước nhớ nguồn. Thầy đã góp phần tạo điều kiện tổ chức trọng thể lễ truy điệu cụ Phan Chu Trinh và luôn quan tâm đến đời sống vật chất cũng như tinh thần của cụ Phan Bội Châu bằng việc luôn khuyến khích, động viên học sinh lui tới chăm nom cụ Phan lúc cụ dưỡng bệnh ở Huế.
Tuy nhiên, số phận dường như luôn ghen tị với những người tài hoa như Lê Văn Miến. Có tài, có đức, có tâm nhưng thầy Lê Văn Miến luôn phải chịu cảnh cô đơn, lạnh lẽo. Thầy từng lấy năm người vợ nhưng cả năm người đều ra đi sớm, mang đến cho thầy những nỗi đau đớn, cực khổ. Có người từng bảo do những người vợ của thầy đều xuất thân từ những gia đình giàu có, có chức, có quyền nên những đức tính chịu thương, chịu khó dường như đã trôi tuột mất theo những cuộc vui bài bạc.
Buồn chuyện gia đình, Lê Văn Miến cũng như bao người đồng tâm, mượn rượu giải sầu. Không biết rượu có làm ông hết buồn, có giúp ông thăng hoa cảm xúc, quên đi những điều cay đắng thực tại hay không nhưng rượu đã làm đôi mắt của ông mờ dần và mù lòa hẳn.
Những năm cuối đời, ông đã chọn một mảnh đất nhỏ bên dòng sông Ô Lâu, huyện Phong Điền để sống nốt những năm tháng dương gian cùng sự chăm sóc của các thế hệ học trò ba trường Quốc học, Hậu bổ và Quốc tử giám Huế.
Năm 1943, ông ra đi. Các tác phẩm nghệ thuật ông để lại cho nhân thế không nhiều (phần lớn bị thất tán), chỉ có hai bức tranh nổi tiếng được giữ lại làm dấu mốc cho hội họa Việt Nam là bức Mẹ con người đàn bà Pháp và con mèo nhỏ cùng bức Bình văn (Bức tranh được chọn làm trang bìa cuốn sách 100 họa sĩ Việt Nam thế kỉ XX).
Nhận xét về bức Bình văn, nhà phê bình hội họa Thái Bá Vân từng nói: “Nó làm cho hội họa hiện đại Việt Nam có thêm một phần tư thế kỉ tuổi đời và thêm một học vấn vững chãi không lặp lại một lần thứ hai nào nữa.” Đồng thời, bức ảnh này cũng được nhiều nhà phê bình lấy làm dấu mốc bức tranh sơn dầu đầu tiên của Việt Nam và Lê Văn Miến chính là người họa sĩ đầu tiên mở đường phát triển cho con đường này.
Sau khi ông mất, các thế hệ học trò ở Huế đã vinh danh ông bằng bức hoành phi “THẾ GIAN SƯ” (Thầy của thiên hạ). Đó chính là sự ghi nhận xứng đáng nhất về nhân cách, tài năng và sự cống hiến của thầy Lê Văn Miến với nền giáo dục, mĩ thuật nước nhà.
Bảo Trang/NĐT