- Nhà thơ Chính Hữu
Chính Hữu, cùng với Vũ Tú Nam, có lẽ là những người đóng góp lớn nhất cho sự thành công của dự án trao đổi và dịch thuật đầu tiên. Ông nằm trong thế hệ những người tham gia kháng chiến chống Pháp. Ông đã khiến tôi ngạc nhiên bởi phong thái thành thị thực sự. Tôi không bao giờ quên được ngày ông đưa chúng tôi bản thảo bằng giấy vỏ hành bao gồm tuyển tập các bài thơ viết bởi những người lính trong chiến tranh. Mọi thứ vẫn còn khó khăn thời đó vào năm 1987, giấy vẫn còn rất hiếm. Những bài thơ ngắn được đánh máy trên từng nửa tờ giấy, bản thảo được gộp lại bởi một kẹp giấy mỏng. Chính Hữu đã nghỉ hưu trước khi cuộc trao đổi bắt đầu, và sau đó vì ốm đau ông không thể đi lại nhiều, nhưng chúng tôi vẫn luôn hỏi thăm khi nào có thể tới thăm ông được. Có lẽ là vì những bài thơ của ông về thành phố và cách ông xử sự, khi nghĩ tới ông tôi nghĩ tới những bức tranh của Bùi Xuân Phái, một người đàn ông đội mũ lệch di chuyển sống động qua những dãy phố nổi tiếng đó.

Cố nhà thơ Chính Hữu
- Nhà văn Nguyễn Khải
Nguyễn Khải là một trong những vị khách đầu tiên của chúng tôi. Luôn ăn mặc chỉnh tề, mang theo vừa đủ sự hòa trộn giữa trang trọng và dân dã, ông dường như vừa bước ra từ một khoảng không đã biến mất. Tôi nhớ là vào năm 1989, ngay cả sau khi bị tấn công bằng vũ lực và lời nói sau một cuộc nói chuyện tại Thư viện công cộng Boston, sườn ông bị thâm tím nặng, ông vẫn xử sự với sự tự trọng và điềm tĩnh, không bao giờ thể hiện dù chỉ một chút tức giận hay phẫn uất. Cũng vào năm đó, tôi nhớ rằng ông, Nguyễn Quang Sáng, và Lê Lựu đã gặp Thượng nghị sĩ John Kerry, và Nguyễn Khải, như một nhà ngoại giao lịch sự, đã có một cuộc trò chuyện dài với Thượng nghĩ sĩ bằng tiếng Pháp. Phẩm chất này, một phẩm chất còn hơn cả vấn đề “phong cách,” mà tôi đã cố gắng nắm bắt lấy trong bức tranh này được lấy ra từ hình ảnh của một bức ảnh chụp cùng ngày chúng tôi gặp gỡ Thượng nghị sĩ.

Cố nhà văn Nguyễn Khải
- Nhà thơ Phạm Tiến Duật
Tôi vẽ bức chân dung này từ một bức ảnh năm 1990 khi ông chụp với một nhóm nhỏ cùng Hữu Thỉnh, Trần Minh Hồ và một vài người khác. Khi đó chúng tôi thường ở Hồ Tây, chỉ tới sau này khi ở trung tâm Hà Nội tôi mới biết tới sự nổi tiếng của ông. Chúng tôi đang ngồi tại bàn ăn khi một bài hát được phát trên radio, dần dần mọi người đều hướng về phía bàn chúng tôi nơi tác giả nhà thơ đang ngồi. Ông đã hát bài hát đó, Trường Sơn Đông, Trường Sơn Tây cho một nhóm khán giả tại Boston, khiến cho nhiều người xúc động. Ông đã dành thời gian với chúng tôi đọc những tấm microfilm bao gồm sổ tay của những người lính bị bắt giữ để tìm những lá thư và những bài thơ mà sau này đuợc in tại Việt Nam.
Tôi nghĩ bài thơ của ông mà tôi yêu thich nhất vẫn là bài Cây cầu được viết vào tháng 8 năm 1964 khi ông mới 19 tuổi vào thời điểm “Sự kiện Vịnh Bắc Bộ” dẫn tới việc ném bom miền Bắc. Duật luôn đợi chúng tôi tại Hà Nội, dẫn chúng tôi tới những cuộc phiêu lưu nhỏ, lần đáng nhớ nhất là chyến đi qua Hồ Tây trên một con thuyền nhỏ tới một ngôi chùa nơi chúng tôi đốt vàng mã và cầu khấn cho những người đã khuất. Tôi vẫn nghĩ tôi nghe được giọng ông, cảm nhận được tâm hồn ông mỗi lần tôi tới thăm Việt Nam.

Cố nhà thơ Phạm Tiến Duật
- Nhà thơ Thu Bồn
Tôi không nghĩ bất kỳ ai từng gặp Thu Bồn có thể quên được ông. Sự chói lọi của ông được tôn lên bởi sự hiền lành và nhã nhặn khiến mọi người yêu quý ông. Vào mùa hè ông ở Dorchester, ông trở thành huyền thoại với những người hàng xóm với bộ com lê trắng và mái tóc bạc dài bay trên phố. Ông đã làm bạn với những người hàng xóm và lũ trẻ nhà họ, làm họ thức khuya lắng nghe những câu chuyện của ông.
Kỷ niệm rõ ràng nhất là một đêm trên sông Bé, trong vườn thơ của ông, ngồi bên đống lửa với những cựu binh và gia đình họ từ nhiều lĩnh vực trong chiến tranh, nhà thơ, nghệ sĩ, những góa phụ, nhiều người đã mất chân tay, tôi quan sát những thân hình khác nhau hiện lên, tỏa bóng bên đống lửa, ca hát, quan sát những người khác, tham gia cùng họ, cầm tay họ, có ai đó cầm một cây nến khi tôi đọc thơ. Bằng cách nào đó tôi cảm thấy tôi mới chỉ bắt đầu vẽ người đàn ông này, mái tóc có phần hoang dã của ông, với nụ cười ôm lấy tất cả mọi người.

Cố nhà thơ Thu Bồn
- Giáo sư Hoàng Ngọc Hiến
Tôi từng đọc các bài viết của giáo sư Hiến trước khi ông đến Boston. Từ những bài viết đó tôi biết rằng ông là một người chân thành, một nhà học giả thực sự độc lập và luôn đổi mới. Đối mặt với những đe dọa từ những người cuồng tín chống cộng trong cộng đồng ông không nhất thiết phải đến Boston, nhưng ông đã đến. Cùng với giáo sư Nguyễn Huệ Chi, ông đã làm việc trong văn phòng phía sau trung tâm với Nguyễn Bá Chung. Cả hai người đều không hề nao núng khi cảnh sát bước vào và báo cho họ biết rằng đã có một cuộc gọi dọa đánh bom vào cuộc thuyết trình của ông. Nhưng cả hai đều muốn tiếp tục.
Giống như một người ông hiền từ, GS.Hiến là một vị giáo sư mà tất cả chúng ta đều muốn có. Tất cả mọi người đều yêu quý ông. Tôi nhớ ngày ông tới trường khi mà những cảnh sát có trách nhiệm giữ an toàn cho ông và họ gặp ông lần đầu, viên chỉ huy của đơn vị thở dài, lắc đầu và nói “vậy đây là người đàn ông nguy hiểm nhất đó sao.” Tôi đã có vinh dự được đến thăm ông tại nhà và văn phòng tại Hà Nội. Gặp ông tại Hà Nội, tôi thấy bao quanh ông là những cuốn sách ông yêu thích, một bức chân dung sơn dầu vẽ Mayakovsky trên tường. Một người đàn ông viết về lịch sử và cuối cùng ông đã làm nên lịch sử.

Cố giáo sư Hoàng Ngọc Hiến
- Nhà văn Vũ Tú Nam
Khi tôi nói với Bruce Weigl rằng tôi đang vẽ một bức chân dung của Vũ Tú Nam, Bruce nói với tôi rằng tôi phải nhớ vẽ được nụ cười đó. Đó là nụ cười dường như bay về từ ngọn núi cao xanh thẳm, ôm lấy những người may mắn được thấy nụ cười đó. Tôi luôn nhớ lần đầu chúng tôi gặp nhau, với ông và Chính Hữu, và không bao giờ quên được sự tử tế của họ. Tôi vẫn có thể nghe được tiếng gà gáy ngoài cửa sổ khi tôi phỏng vấn ông năm 1992, khi ông kể cho tôi nghe về lá thư ông viết cho vợ lúc đang gia nhập với những người theo đạo Thiên Chúa miền Bắc. Tôi cố gằng nắm bắt lấy vẻ lịch lãm và sức mạnh bao quanh ông, cũng như cảm giác của một người đàn ông mặc dù truởng thành nhưng cũng không lạ gì với sự hóm hỉnh như một cậu bé.

Nhà văn Vũ Tú Nam
- Nhà văn Nguyễn Quang Sáng
Vì một vài lý do, khi tôi vẽ Sáng, tôi cảm thấy như mình đang cố nắm bắt một sức mạnh có thể có của một con người. Mỗi lần gặp Sáng, ông luôn tỏ ra là trung tâm của một vòng tròn năng lượng lớn. Mọi người gặp ông đều biết đến tiếng cười của ông.
Tôi luôn liên hệ nhà văn Sáng với âm nhạc. Tại Boston, tôi vẫn nhớ lúc ngồi ngoài vườn khi ông hát những bài hát cũ của Trịnh Công Sơn cùng những người bạn. Tại Sài Gòn, tôi vẫn nhớ lúc lắng nghe piano của con gái một người bạn từ cửa sổ vào một con ngõ nhỏ khi chúng tôi ngồi ngoài đó quay thịt lợn. Chúng tôi đã có rất nhiều buổi tối muộn với nhau, bao gồm cả những hôm tôi quan sát ông chơi bóng rổ ở sân sau nhà tôi. Tôi cố gắng nắm bắt những điều đó trong bức chân dung đầu tiên. Rồi sau khi tới thăm ông tại nhà mới, nhìn thấy chiếc võng rừng cũ của ông trong phòng làm việc của ông, bàn làm việc với những bức ảnh ông hồi trẻ trong rừng, tôi quan sát ông ôm đứa cháu mình. Lúc đó tôi biết là mình cần phải vẽ một bức chân dung thứ hai của ông khi còn trẻ.

Nhà văn Nguyễn Quang Sáng
- Nhà văn Nguyên Ngọc
Dù nay đã là một nhà văn lớn tuổi, Nguyên Ngọc dường như không bao giờ già đi. Tôi vẫn còn nhớ lần quan sát gương mặt ông trở nên đầy sức sống lần đầu tôi phỏng vấn ông năm 1992, đôi mắt ông sáng lên khi ông kể về cuộc đời mình trong chiến tranh và cái ngày ông thấy gương mặt vợ mình giữa những tù nhân được thả nhiều năm sau khi ông tưởng bà đã chết.
Tôi còn nhớ mười năm sau đó vợ tôi, các con tôi và tôi ngạc nhiên quan sát ông và Trần Văn Thủy sắp xếp một bàn ăn ở sân sau nhà khi chúng tôi đang lóng ngóng chuẩn bị nấu ăn ngoài trời. Ngọc bất ngờ xuất hiện, còn tôi đang băn khoăn không hiểu sao tôi có thể vừa tiếp khách vừa chuẩn bị đồ ăn cùng một lúc. Không có vấn đề gì, Nguyên Ngọc tham gia vào ngay, vui vẻ giúp đỡ và trò chuyện. Đó là phẩm chất của người đàn ông tôi tìm kiếm trong bức chân dung.

Nhà văn Nguyên Ngọc
- Nhà thơ Hữu Thỉnh
Một trong những kỷ niệm sống động nhất của tôi là về Hữu Thỉnh, Lê Minh Khuê, và Nguyễn Quang Thiều bước xuống máy bay, bước đi trên con đường vào ngày họ tới Boston. Họ tới thăm và tạo ra một mối liên kết vẫn tồn tại ba mươi năm sau. Ban đầu chúng tôi cũng hơi hồi hộp vì chức vụ cao và quá khứ hoành tráng của ông nhưng vào một ngày ông vào bếp nhà tôi với chiếc mũ dạ và bộ đồ ngủ thì tôi biết rằng chúng tôi sẽ trở thành bạn lâu dài. Thường vào buổi sáng, ông đưa tôi ra vườn và dạy tôi những bài tập để bảo đảm sức khỏe, vào buổi trưa ông thường kể chuyện và nấu ăn. Ông còn giúp chúng tôi đóng một chiếc gương trước cửa chính để phản lại khí xấu vì ông lo lắng vấn đề phong thủy của nhà tôi. Ông cũng thường trông chừng mỗi khi con trai tôi chơi ở sân sau.
Một trong những kỷ niệm đẹp nhất của tôi mới chỉ hơn một năm trước đây khi chúng tôi cùng đi ăn tối ở Hà Nội, Thỉnh và vợ ông, tôi cùng vợ tôi Leslie, con gái tôi Lily và hai cô con gái ông. Tôi vẽ bức chân dung này cũng với bức ảnh chụp năm 1990 tôi dùng để vẽ chân dung Phạm Tiến Duật. Những nhà thơ của chiến tranh, những đôi mắt đầy niềm vui và nỗi buồn, tình bằng hữu, những điều kỳ diệu, và sự mất ngủ triền miên.

Nhà thơ Hữu Thỉnh
- Nhà văn Lê Lựu
Lê Lựu là nhà văn đầu tiên chúng tôi gặp tại Việt Nam. Ông là người dẫn đường và là đại sứ của chúng tôi. Vào cuối những năm 80, ông dẫn chúng tôi tới thăm những ngôi nhà mù tối vào ban đêm, những ngôi làng của những cựu binh tật nguyền, tới gặp những cựu binh khác nơi mà chúng tôi xếp những núi bia và thuốc lá, những thứ hàng hiếm trên bàn. Ông là người đầu tiên tới và thăm chúng tôi tại Hoa Kỳ, du lịch quanh đất nước, gặp những cựu binh và nhà văn tại những vùng chưa được thám hiểm.
Cũng giống như những gì ông đã làm trước chiến tranh, khi ông được gửi lên biên giới để trao đổi thực phẩm với những người lính khác. Tôi đã tìm những hình ảnh của Lê Lựu thời trẻ cho bức chân dung, cố gắng lột tả người đàn ông có thể là Sài hoặc anh trai ông trong “Thời xa vắng,” có thể là một anh hùng, một cậu bé quê, ngây thơ nhưng cũng thông thái dần qua thời gian, không thoải mái lắm trong bộ com lê, nhưng luôn biết rằng ông có nhiệm phụ phải trình diễn.

Nhà văn Lê Lựu
- Nhà văn Đỗ Chu
Tôi nhớ rất rõ đêm đầu tiên Đỗ Chu tới thăm Boston. Ông đến với đầy những tấm toan căng sẵn và màu dầu sẵn sàng để vẽ. Chúng tôi thức khuya mỗi đêm sau khi hoàn thành công việc ban ngày, nói chuyện, trao đổi những câu chuyện, khi ông vẽ chân dung Leslie và cả tôi mà đến giờ vẫn treo trong nhà tôi. Ông không bao giờ cảm thấy thỏa mãn, và cứ lần nữa, cho dù chúng tôi có ngăn cản rằng “bức chân dung đã xong rồi,” chúng tôi vẫn quan sát ông đi ra vườn sau và cạo đi tất cả những gì ông vẽ cả ngày.
Ông là một trong những người rất thích bạn bè khách khứa với lòng trắc ẩn sâu sắc. Tôi được biết tới câu chuyện về việc ông từ bỏ viết lách trong hơn 5 năm để về quê chăm sóc vợ. Vài năm trước ông dẫn chúng tôi tới thăm quê nhà Bắc Ninh. Tại đó chúng tôi thấy một vài bức tranh của ông, căn phòng nơi ông làm việc, chúng tôi lắng nghe và trò chuyện với những nghệ sĩ quan họ địa phương trong một buổi tối kỳ diệu. Năm ngoái khi chúng tôi tới thăm Khe Sanh, ông thấy một bức ảnh của một nhóm bao gồm ông khi còn trẻ treo trên tường một bảo tàng. Trong bức chân dung này tôi cố gắng nắm bắt lấy ông, sự kết hợp của người lính, nhà văn, học giả, mang lại hình ảnh và sự ân cần của ông.

Nhà văn Đỗ Chu
(Còn nữa)
Nhà thơ Nguyễn Quang Thiều