Loại cây này có tên là Carpinus putoensis, trong tiếng Trung gọi là Phổ Đà Nga Nhĩ Lịch, có nghĩa là sồi tai ngỗng Phổ Đà.
Cây sồi tai ngỗng Phổ Đà này được phát hiện vào năm 1930 bởi ông Chung Quan Quang, một nhà thực vật học Trung Quốc cùng nhóm của mình.
Điều khiến ông Chung chú ý vào thời điểm đó là dù chung thân cây nhưng màu sắc của hoa lại khác nhau rõ ràng. Theo đó, hoa cái có màu đỏ nhạt và hoa đực có màu vàng nhạt. Tuy nhiên, nhóm của ông Chung khi đó chưa thể xác định giống cây này thuộc loài nào.
Mãi đến năm 1932, một nhà thực vật học khác, Giáo sư Trịnh Vạn Quân mới xác định được nó thuộc chi Carpinus (Ngã Nhĩ Lịch) của họ Betulaceae (họ Bạch dương hay còn gọi họ Cáng lò).
Vì loài cây này chỉ được tìm thấy ở núi Phổ Đà nên được đặt tên là Phổ Đà Nga Nhĩ Lịch, hay sồi tai ngỗng Phổ Đà.
Theo tìm hiểu của các nhà nghiên cứu, ban đầu, sồi tai ngỗng Phổ Đà phân bố chủ yếu ở trên Phổ Đà Sơn nhưng sau đó do nạn phá rừng và khai hoang với quy mô lớn diễn ra thường xuyên nên số lượng cây giảm mạnh.
Tới thời điểm nhóm của Chung Quan Quang tìm tới thì loại cây này chỉ còn duy nhất một cá thể còn sót lại trong một ngôi đền trên núi. Vì loài sồi tai ngỗng Phổ Đà chỉ còn sót lại một cây nên nó còn được gọi là "đứa con duy nhất của Trái đất".
Khi được phát hiện, cây cao 14 m, ước tính 250 tuổi và lộ rõ dấu hiệu lão hóa. Rất may, nhờ có sự bảo vệ của các vị sư sống trong ngôi đền, cây sồi tai ngỗng Phổ Đà này không bị đốn hạ.
Bên cạnh môi trường sống bị hủy hoại, việc khả năng sinh sôi kém cũng khiến sồi tai ngỗng Phổ Đà đứng trước nguy cơ tuyệt chủng.
Theo các nhà thực vật học, cây sồi tai ngỗng Phổ Đà chủ yếu ra hoa vào khoảng tháng 4 hàng năm. Tuy nhiên, đầu và giữa thường nở hoa đực, trong khi hoa cái nở vào giữa và cuối tháng. Số ngày hoa đực và hoa cái nở đồng thời ước tính chỉ khoảng 9 ngày.
Thời tiết tháng 4 trên núi Phổ Đà thường không tốt khiến số ngày "gặp nhau" của hai giống hoa càng có thể ngắn đi, ảnh hưởng đến quá trình thụ phấn tự nhiên.
Càng kỳ lạ hơn nữa là hoa cái của cây thường nở ở nơi cao nhất, trong khi hoa đực lại nở ở nơi thấp hơn, điều này khiến xác suất thụ phần thành công nhờ gió thấp. Đồng thời, môi trường sinh thái bị phá hoại khiến việc thụ phấn nhờ côn trùng giảm đi.
Chưa hết, hạt của sồi tai ngỗng Phổ Đà có vỏ cứng và dày. Đặc điểm này chủ yếu là để chống chọi với khí hậu khắc nghiệt nhưng cũng mang tới cho chúng nhược điểm là khó nảy mầm tự nhiên.
Đặc tính khó sinh sôi tự nhiên cùng môi trường bị huỷ hoại đẩy sồi tai ngỗng Phổ Đà đến bờ vực tuyệt chủng.
Ủy ban Bảo tồn Loài Quốc tế (SSC) liệt vào danh sách 12 loài thực vật có nguy cơ tuyệt chủng cao nhất thế giới.
Chính phủ Trung Quốc đã xếp nó vào "Danh sách các loài thực vật hoang dã cần được bảo vệ của quốc gia".
Các nhà thực vật học rất lo lắng cho số phận của sồi tai ngỗng Phổ Đà. Họ đã dùng nhiều biện pháp chăm sóc và bảo vệ khác nhau, giúp cây đại thụ này dần lấy lại sức sống và bắt đầu ra hoa kết trái đều đặn hàng năm.
Tuy nhiên, các nhà thực vật học vẫn gặp khó trong việc nhân giống cá thể duy nhất này. Mãi đến những năm 2000, các nhóm nghiên cứu mới tìm ra những cách thụ phấn nhân tạo, kỹ thuật nhân giống mới cùng với các phương pháp giâm cành, chiết cành… để nhân giống cây sồi này.
Sau nhiều năm nỗ lực, số lượng cây sồi con được nhân giống đã lên tới con số hàng chục nghìn. Thậm chí khi tàu Thiên Cung 1 của Trung Quốc được phóng vào năm 2011, sồi tai ngỗng Phổ Đà là một trong 4 loài thực vật được gửi hạt giống vào vũ trụ để tham gia thí nghiệm nhân giống trong không gian.
Minh Hoa (t/h)