Được biết, tục lệ khóc trong đám cưới được phổ biến nhất vào đầu thế kỷ 17 cho tới cuối triều đại nhà Thanh vào năm 1911.
Tục lệ này được cho là có nguồn gốc trong thời kỳ Chiến quốc (472 -211 TCN) khi công chúa của nước Triệu được gả sang nước Yên. Trước khi lên đường, mẹ công chúa đã quỳ xuống chân cô khóc và dặn dò con gái trở về nhà sớm nhất có thể. Đây được cho là đám cưới khóc đầu tiên.
Mặc dù không phổ biến như trước kia nhưng vẫn có một số gia đình ở tỉnh Tứ Xuyên tây nam Trung Quốc, đặc biệt là người dân tộc Thổ Gia vẫn giữ tập tục kỳ lạ này. Là dân tộc thiểu số lớn thứ 6 tại Trung Quốc, hiện có khoảng 8 triệu người Thổ Gia đang sống ở vùng núi Wuling.
Nghi lễ khóc trong đám cưới khá đơn giản, cô dâu chỉ cần bật khóc. Nếu không khóc hoặc không thể khóc thì những hàng xóm sẽ coi rằng cô dâu không có khả năng sinh nở. Tồi tệ hơn, cô dâu thậm chí còn trở thành trò cười cho dân làng hoặc bị mẹ đánh.
Ở mỗi vùng khác nhau ở tỉnh Tứ Xuyên, tập tục này lại được thực hiện khác nhau. Ví dụ như ở miền Tây, phong tục này được gọi là “Zuo Tang” (có nghĩa là ngồi trong phòng lớn). Mỗi cô dâu trước khi cưới một tháng đều được yêu cầu vào ngồi trong một căn phòng và khóc.
Trong suốt cả tháng trời, người con gái sắp về nhà chồng hàng đêm đều phải vào căn phòng đó và khóc trong khoảng thời gian một tiếng đồng hồ. Sau đó khoảng 10 ngày mẹ cô sẽ vào và khóc cùng cô. Mười ngày sau là bà và sau đó mấy ngày các dì và các chị gái sẽ cùng nhập bữa tiệc “khóc”.
Khóc không chỉ đơn giản là chảy nước mắt mà còn có cả một bài hát phụ họa có tên “Bài ca than khóc trong đám cưới”. Đây là lời trong một bài thơ được hát lên để làm cho không khí đám cưới được tốt đẹp. Ngoài ra còn một số bài hát khác có chủ đề về sự siêng năng, nghi thức xã giao và lòng hiếu thảo với cha mẹ cũng được hát nhân dịp này.
Thế Hào (Tổng Hợp)