Một loạt bài thơ thể hiện tình cảm yêu mến, nồng thắm giữa hai người khiến dư luận không thôi bàn tán về quan hệ giữa họ...
Xuân Diệu và vợ chồng Huy Cận - Xuân Như tại chiến khu Việt Bắc (Ảnh tư liệu của ông Cù Huy Hà Vũ)
Em rể thành "chàng thơ"?!
Gần như suốt cả cuộc đời, Xuân Diệu và Huy Cận luôn song hành bên nhau như hình với bóng. Huy Cận từng có thời kỳ trở thành em rể của Xuân Diệu khi lấy Ngô Xuân Như, em gái Xuân Diệu làm vợ. Nhưng từ trước đó, vào những năm 30 của thế kỷ trước, họ đã quen nhau khi cả hai còn là học sinh trung học ở Huế.
Trong khoảng thời gian từ năm 1939 đến năm 1940, Xuân Diệu và Huy Cận sống cùng nhau tại ngôi nhà ở số 40 Hàng Than, Hà Nội. Ngày ấy, họ sống trong căn phòng trên gác, phía dưới là gia đình nhà thơ Lưu Trọng Lư. Kháng chiến chống Pháp bùng nổ, Xuân Diệu và Huy Cận lại có thời gian gắn bó cùng nhau trên chiến khu Việt Bắc.
Sau năm 1954, đôi bạn thơ lại sống cùng nhau trong căn nhà ở 24 Cột Cờ (nay là phố Điện Biên Phủ, Hà Nội). Gia đình Huy Cận ở trên gác còn Xuân Diệu sống phía dưới. Huy Cận đã tả sự sóng đôi này trong thơ: "Đêm đêm trên gác đèn chong /Cận ngồi cặm cụi viết dòng thơ hay/ Dưới nhà bút chẳng rời tay /Bên bàn Diệu cũng miệt mài trang thơ/ Bạn từ lúc tuổi còn tơ /Hai ta hạt chín trong mùa nắng trong/ Ánh đèn trên gác dưới phòng/ Cũng là đôi kén nằm trong kén trời".
Cách xưng hô "hai ta" này được dư luận trên văn đàn Việt Nam cho là "lạ" bởi người Việt thường hay dùng từ đó để chỉ cặp đôi trong tình yêu đôi lứa.
Sau này, trong bài "Nửa thế kỷ tình bạn" in trong tập Xuân Diệu - con người và tác phẩm, Huy Cận kể: "Tựu trường năm 1936, chúng tôi gặp nhau lần đầu tiên ở trường tú tài Khải Định, Huế. Anh Diệu học năm thứ 3, tôi vào học năm thứ nhất. Hai đứa đọc thơ cho nhau nghe, và đồng thanh tương ứng, kết bạn với nhau gần như tức khắc. Năm 1937, anh Diệu ra Hà Nội học trường Luật và viết báo, tôi học năm thứ hai ban tú tài.
Anh Diệu và tôi viết thư cho nhau hàng tuần. Năm 1938 tôi ra sống với anh Diệu ở chân đê Yên Phụ... Rồi tựu trường năm 1939, Huy Cận và Xuân Diệu sống ở tầng gác nhà số 40 Hàng Than. Đến cuối năm 1940, Xuân Diệu đi làm tham tá thương chánh ở Mỹ Tho, chúng tôi tạm xa nhau, buồn đứt ruột, hàng tuần viết thư cho nhau, có tuần, hai ba lá thư".
Đến mùa hè năm 1942, Huy Cận đậu kỹ sư canh nông và cuối năm bắt đầu đi làm. Xuân Diệu liền điện hỏi Huy Cận: Diệu từ chức được chưa?, Huy Cận liền trả lời: Từ chức ngay, về ngay Hà Nội. Thế là họ trở về sống cùng nhau trên gác ngôi nhà số 61 phố Hàng Bông, Hà Nội và tiếp tục làm thơ.
Bài thơ "Mai sau" của Huy Cận càng thể hiện tình thân thiết, thương yêu của hai người: "Chiều nay đây nửa thế kỷ hai mươi/ Viết dăm câu tôi gửi lại vài người/ Những thế hệ mai sau, làm bè bạn/ Hỡi ai đó, có nhớ lòng Huy Cận/ Gọi gió trăng mà thỏ thẻ lời trên/ Rất thương yêu, xin nhớ gọi giùm tên/ Rất an ủi của bạn chàng: Xuân Diệu".
Vậy là, hai thi sĩ tri ân, gắn bó, chung sống bên nhau suốt gần nửa thế kỷ mãi cho đến năm 1985 khi Xuân Diệu mất. Viết về tình yêu, tình cảm gắn bó ấy, chính Huy Cận nhiều khi cũng thấy làm lạ: "Hai đứa rồi ra nghĩ cũng kỳ/ Thương nhau hơn ruột thịt dường ni/ Mà đàn mỗi đứa riêng âm sắc/ Cuộc sống muôn màu lặp lại chi!". Vào lúc 7 giờ 40 phút ngày 18/12/1985, Xuân Diệu mất, đúng lúc ấy, Huy Cận đang ở Dakar (Senegal) đột ngột bị xuất huyết nặng.
Người vợ duy nhất trong 6 tháng của Xuân Diệu, nữ đạo diễn Bạch Diệp cũng khẳng định về tình cảm sâu sắc, mối quan hệ gắn bó, khăng khít vô cùng giữa Xuân Diệu và Huy Cận.
Lời "tự thú" của thi nhân?
Tình cảm giữa hai người đàn ông được Xuân Diệu thể hiện nổi bật nhất trong bài thơ "Tình trai"; "Tôi nhớ Rimbaud với Verlaine/ Hai chàng thi sĩ choáng hơi men/ Say thơ xa lạ, mê tình bạn/ Khinh rẻ khuôn mòn, bỏ lối quen/ Những bước song song xéo dặm trường/ Đôi hồn tươi đậm, ngát hoa hương/ Họ đi tay yếu trong tay mạnh/ Nghe hát ân tình giữa gió sương/ Kể chi chuyện trước với ngày sau/ Quên ngó môi son với áo màu/ Thây kệ thiên đường và địa ngục/Không hề mặc cả, họ yêu nhau".
Không ít dư luận cho rằng, đó là lời "tự thú" của "ông hoàng thơ tình" Xuân Diệu trước những lời đồn thổi về giới tính của ông xuất hiện suốt từ thập niên 30 thế kỷ trước. Người ta cho rằng, thi nhân tài hoa Xuân Diệu đã mượn chuyện tình giữa hai nhà thơ đồng tính Rimbaud và Verlaine để thể hiện sự đồng điệu, quan điểm về những tình yêu không giới hạn, vượt ra khỏi khuôn khổ hà khắc của xã hội. Paul-Marie Verlaine là một trong những nhà thơ lớn của Pháp thế kỷ XIX. Ông từng có những năm tháng tình ái với nhà thơ trẻ Arthur Rimbaud.
Đây là quãng thời gian Verlaine viết những bài thơ hay nhất của mình. Mối tình trai giữa hai thi nhân nổi tiếng rốt cuộc không thoát khỏi ánh mắt hiếu kỳ của dư luận. Không dễ dàng được chấp nhận vào thời bấy giờ, họ đã quyết định rời Paris, đến London tận hưởng cuộc sống như những người bạn đi du lịch cùng nhau.
Trong một lần giận dỗi giữa hai người, Rimbaud đã viết hàng chục bức thư cầu xin Verlaine trở lại. Trong đó, có những câu ông viết: "Anh nghĩ là đi với người khác đời anh sẽ hạnh phúc hơn ư?" hay "Chỉ có sống cùng tôi, anh mới có được tự do thôi".
Lã Xưa