Thời gian gần đây, dư luận xã hội đặc biệt quan tâm, có nhiều ý kiến phản hồi, phê phán, thậm chí là lắc đầu ngao ngán về một số quy định mới được ban hành như: Việc ghi tên cha mẹ trong chứng minh thư; cấm nghe điện thoại tại cây xăng; phạt xe không chính chủ; cấm để ô kính trên nắp quan tài… gần đây nhất là quy định về việc “siết” thức ăn đường phố tại Thông tư 30 của Bộ Y tế, bởi vì tính bất hợp lý, không khả thi của các quy định này, thậm chí một số báo chí còn đặt tên là “những văn bản có hiệu lực… trên trời”.
Trước phản ứng của dư luận, giải trình của các cơ quan soạn thảo thường thể hiện tính thiếu thuyết phục như “Nắp kính không đảm bảo an toàn đối với người chết” hay “quy định chỉ là hạn chế, tuyên truyền”… Trong thực tế, một số quy định đã tìm cách tháo lui (Nghị định 34 về xử phạt xe không chính chủ) hoặc tự thân trở nên vô hiệu, rút khỏi đời sống mặc dù vẫn tồn tại trên…giấy.
Tình trạng ban hành quy định không có hiệu lực thực tế không chỉ gây lãng phí về nguồn lực, kinh phí ngân sách mà hậu quả lâu dài hơn thuộc về lĩnh vực đời sống tinh thần của xã hội, làm giảm niềm tin của người dân vào hiệu quả quản lý, điều hành; gián tiếp tiếp tay cho tâm lý “nhờn luật”, không tự giác tuân thủ pháp luật.
Ảnh minh họa
Đâu là nguyên nhân?
Thực tế cần phải được thừa nhận, đó chính là: Những “nhà làm luật” chưa có chuyên môn phù hợp, chưa chuyên nghiệp trong việc xây dựng pháp luật và quy trình ban hành văn bản pháp luật vẫn mang nặng tính hình thức, bệnh thành tích.
Thực trạng nước ta hiện nay là cơ quan hành chính đã “làm thay” công việc của cơ quan lập pháp, trật tự phân chia quyền lực nhà nước trên thực tế đã bị “đảo ngược” với khoa học lý luận về việc xây dựng nhà nước pháp quyền. Nếu như một số nước trên thế giới, cơ quan lập pháp có bộ phận chuyên trách soan thảo các dự án luật để trình Quốc hội thông qua thì ở Việt Nam việc soạn thảo các dự án luật đều do Chính phủ (cơ quan hành pháp) đảm nhận. Các đạo luật do cơ quan hành chính dự thảo sau đó trình Quốc hội thông qua.
Các văn bản quy định chi tiết, hướng dẫn thi hành luật thì thuộc chuyên môn của ngành nào thì ngành đó xây dựng ban hành. Chính vì thế, các văn bản pháp luật ở Việt Nam, đặc biệt là Nghị định, Thông tư đã xây dựng luật trên góc độ, tầm nhìn của “nhà quản lý”, với mục tiêu hướng tới: làm thế nào để thuận tiện cho việc quản lý nên nhiều khi đã “bỏ quên” những nguyên tắc cơ bản của việc ban hành văn bản pháp luật.
Chức năng của pháp luật là điều chỉnh các quan hệ xã hội, thực hiện vai trò quản lý nhà nước. Một trong những nguyên tắc quan trọng trong việc ban hành văn bản quy phạm pháp luật là đảm bảo tính khách quan, tính khả thi trên thực tế. Nói cách khác, pháp luật phải xuất phát từ cuộc sống. Nếu nhà làm luật không tuân thủ nguyên tắc này mà chỉ muốn áp đặt ý chí chủ quan để thực hiện chức năng quản lý nhà nước, xa rời thực tiễn cuộc sống thì hậu quả tất yếu sẽ ban hành ra những văn bản với những quy phạm “trên trời”, không thể thực hiện trong thực tế.
Một nguyên nhân nữa, không thể không nói đến, đó chính là “vấn nạn hình thức”, “làm cho có, cho đủ” trong quy trình ban hành văn bản quy phạm pháp luật của các cơ quan có thẩm quyền hiện nay:
Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật quy định đầy đủ về nguyên tắc xây dựng, ban hành văn bản; về quy trình công khai, lấy ý kiến đóng góp của cơ quan, tổ chức, công dân, của đối tượng bị tác động và quy trình thẩm định văn bản.
Tuy nhiên, khi thực hiện trên thực tế, cơ quan ban hành lại chỉ thực hiện cho có, cho đầy đủ thủ tục, chứ không chú trọng đến chất lượng, hiệu quả. Có những văn bản được tổ chức lấy ý kiến rộng rãi, công khai nhưng ban dự thảo không tiếp thu ý kiến đóng góp hoặc quy định thời gian lấy ý kiến quá ngắn hoặc không tổ chức lấy ý kiến của những đối tượng bị tác động trực tiếp....
Nếu không nhằm mục đích hấp thụ tư duy của đối tượng lấy ý kiến, chỉ cần nhanh chóng hoàn tất thủ tục, hoàn thành “dự án Nghị định, Thông tư” thì quy trình lấy ý kiến sẽ chỉ là thủ tục “hình thức”, mất thời gian và các văn bản được ban hành cũng chỉ có hiệu lực “hình thức”.
Ngoài ra, cũng phải kể đến những nguyên nhân xuất phát từ những vấn đề bất cập trong quy trình ban hành văn bản quy phạm pháp luật hiện nay:
Thứ nhất: Chưa có cơ chế pháp lý đảm bảo cho hoạt động thẩm định. Theo quy định pháp luật hiện hành thì ngành tư pháp có trách nhiệm thẩm định các dự thảo văn bản của các cơ quan, ban ngành khác tuy nhiên lại không có quy định về giá trị hiệu lực của ý kiến thẩm định mà chỉ dừng lại ở mức “cơ quan soạn thảo có trách nhiệm nghiên cứu thẩm định” và cũng không có quy định về trách nhiệm của cơ quan thẩm định sau ban hành.
Đây là nguyên nhân làm giảm hiệu lực của ý kiến thẩm định và đương nhiên cũng làm giảm trách nhiệm của cơ quan thẩm định. Chính vì lấy ý kiến thẩm định cũng chỉ là “làm cho đầy đủ quy trình” và việc cơ quan tư pháp cũng chỉ đưa ý kiến thẩm định “cho đúng nghĩa vụ”, thiếu cơ chế ràng buộc về trách nhiệm là nguyên nhân góp phần cho tình trạng tồn tại văn bản pháp luật không có tính khả thi như hiện nay.
Thứ hai: Về cơ chế kiểm tra, đánh giá hiệu quả của quy định pháp luật và cơ chế xử lý trách nhiệm của cơ quan, người ban hành quy phạm pháp luật. Một quy định được ban hành sẽ tác động đến đời sống xã hội theo ba hướng: Tích cực, tiêu cực hoặc không có gì. Những tác động đó trong chừng mực nhất định có thể định lượng.
Tuy nhiên đến nay, việc đánh giá hiệu quả pháp luật mới chỉ dừng lại ở các hoạt động tổng kết thi hành về mặt hình thức; chưa có cơ chế, phương pháp xác định hiệu quả tích cực hay tác động tiêu cực của quy định pháp luật.
Đồng thời chúng ta cũng chưa có quy định về việc xem xét, xử lý trách nhiệm của cơ quan, người ban hành quy phạm pháp luật trong trường hợp ban hành văn bản không đảm bảo tính khả thi, ngoài quy định về việc sửa đổi, hủy bỏ văn đó. Việc “thả nổi” trách nhiệm của người soạn thảo, cơ quan ban hành cũng là nguyên nhân trực tiếp dẫn đến tình trạng văn bản quy phạm pháp luật kém chất lượng.
Giải pháp khắc phục tình trạng trên
Để khắc phục tình trạng quy định ban hành thiếu tính khả thi, cần phải tập trung xử lý các nguyên nhân nêu trên. Đầu tiên là cần phải tách bạch giữa “nhà làm luật” và “nhà quản lý”, cần phải xóa bỏ tình trạng cơ quan hành pháp “vừa đá bóng, vừa thổi còi” một cách thiếu chuyên nghiệp trong việc xây dựng, thực thi pháp luật.
Tiếp đến, cần phải chú trọng vào khâu con người, xây dựng đội ngũ cán bộ chuyên sâu trong lĩnh vực xây dựng văn quy phạm pháp luật với tiêu chuẩn về trình độ rõ ràng, chế độ đãi ngộ hợp lý; Đảm bảo tư duy pháp luật “trong sáng, khách quan khoa học” trong quá trình soạn thảo, ban hành văn bản; Sửa đổi quy định của pháp luật theo hướng đảm bảo hiệu lực thực tế ý kiến thẩm định; quy định chặt chẽ về quy trình lấy ý kiến đặc biệt là ý kiến của đối tượng bị tác động; trách nhiệm của cơ quan và cá nhân chịu trách nhiệm soạn thảo, thẩm định, ban hành văn bản và trong điều kiện khả thi, cần sớm hình thành cơ chế đánh giá tác động, hiệu quả của các quy định pháp luật được ban hành.
Nếu thực hiện được hai yêu cầu này thì chắc chắn sẽ khắc phục được tình trạng đã xảy ra như nêu ở trên.
Luật sư Hà Thị Thanh (CTTĐT Liên đoàn luật sư Việt Nam)