Sáng 23/3, Liên đoàn Thương mại và Công nghiệp Việt Nam (VCCI) đã tổ chức hội thảo lấy ý kiến của các doanh nghiệp trong và ngoài nước về Dự thảo Luật Viễn thông (sửa đổi). Tham dự hội thảo có đại diện của các ủy ban của Quốc hội, các bộ ngành, các cơ quan nghiên cứu về chính sách, các hiệp hội và đông đảo các doanh nghiệp, chuyên gia trong lĩnh vực viễn thông.
Luật Viễn thông (Sửa đổi) dự kiến sẽ được trình Quốc hội cho ý kiến vào kỳ họp thứ 5 diễn ra vào tháng 5-6/2023.
Ông Trần Thế Phương, Phó trưởng phòng Phòng Chính sách Cục Viễn thông của Bộ Thông tin và Truyền thông – đơn vị xây dựng dự thảo luật, cho biết trong 13 năm thực thi Luật Viễn thông 2009, đã có một số nội dung vướng mắc. Thậm chí, có những nội dung triển khai trên thực tế rất khó khăn vì luật đã trải qua một vòng đời khá dài. Do đó, luật hiện nay chưa phù hợp với xu thế phát triển của công nghệ cũng như yêu cầu quản lý với lĩnh vực viễn thông trong tình hình mới.
Thứ nhất, sự phát triển của công nghệ là xu thế hội tụ giữa viễn thông, công nghệ thông tin cũng như internet. Hiện nay, sự hội tụ của viễn thông, công nghệ thông tin và Internet sinh ra một dịch vụ mới như OTT. Sự hội tụ này cũng sinh ra hạ tầng và dịch vụ mới là hạ tầng về trung tâm dữ liệu, điện toán đám mây.
Trong xu thế chuyển đổi số, những hạ tầng này rất quan trọng và có mối quan hệ mật thiết với hạ tầng viễn thông để hình thành nên hạ tầng số phục vụ cho kinh tế số và xã hội số. Những vấn đề như vậy cần phải giải quyết ở Luật Viễn thông hiện tại để tạo ra một không gian phát triển mới cho lĩnh vực trong tương lai.
Thứ hai, cần thiết phải sửa đổi Luật Viễn thông là pháp luật chung bản thân đã có rất nhiều thay đổi. Từ 2009 đến nay, đã có rất nhiều luật mới ban hành như Luật Cạnh tranh, Luật Quản lý và sử dụng tài sản công, Luật Giá, Luật Đấu giá tài sản, Luật Quy hoạch. Tất cả những luật này đòi hỏi phải rà soát của Luật Viễn thông để đảm bảo đồng bộ, thống nhất chung của pháp luật.
Cuối cùng, Việt Nam hiện đã và đang tham gia nhiều hiệp định mới. Do vậy đòi hỏi phải rà soát về Luật Viễn thông để đảm bảo phù hợp đối với các cam kết của Việt Nam.
Phá bỏ rào cản đối với nhà đầu tư nước ngoài
Ông Vũ Tú Thành, Phó Giám đốc điều hành, Hội đồng Kinh doanh Hoa Kỳ - ASEAN (USABC) đánh giá cao những nỗ lực của Quốc hội và Chính phủ Việt Nam trong việc sửa đổi và hoàn thiện Luật Viễn thông để đáp ứng yêu cầu phát triển của ngành viễn thông.
Tuy nhiên, ông Thành cho rằng các quy định hiện nay trong Dự thảo sẽ tạo nên những rào cản đối với đầu tư nước ngoài trong lĩnh vực điện toán đám mây và dịch vụ trung tâm dữ liệu. Trong khi đó, đây là những dịch vụ vô cùng quan trọng đối với sự phát triển của một nền kinh tế số.
Hiện các nhà cung cấp OTT nước ngoài đang cung cấp những phương tiện để mọi người có thể trao đổi với nhau dễ dàng và thuận tiện hơn rất nhiều so với trước đây, đồng thời góp phần vào quá trình ứng dụng công nghệ thông tin, công nghệ số tại Việt Nam.
Việc phân biệt giữa các nhà cung cấp dịch vụ OTT và các doanh nghiệp cung cấp các dịch vụ viễn thông truyền thống thông qua quy định mức trần tỉ lệ sở hữu nước ngoài sẽ khiến các nhà cung cấp dịch vụ OTT trong nước gặp khó khăn trong huy động vốn từ các nhà đầu tư nước ngoài, điều này sẽ cản trở đổi mới công nghệ tại Việt Nam.
Thực tế, sự phát triển của hai loại hình dịch vụ này rất cần huy động mọi nguồn lực bao gồm cả vốn và và công nghệ từ mọi thành phần kinh tế, trong đó đặc biệt là từ khu vực đầu tư nước ngoài.
Thế nhưng, việc quản lý dịch vụ viễn thông đã tạo ra những hạn chế về vốn góp của nhà đầu tư nước ngoài. Cụ thể, quy định về cấp phép như đối với dịch vụ viễn thông, hoặc buộc các doanh nghiệp nước ngoài phải ký kết hợp đồng thương mại với doanh nghiệp viễn thông trong nước là những quan ngại lớn của các nhà đầu tư nước ngoài vào lĩnh vực này.
Do đó, các chính sách về quản lý và phát triển dịch vụ viễn thông qua vệ tinh cần được khuyến khích và theo xu thế phát triển chung của thế giới. Cung cấp dịch vụ internet qua vệ tinh đang là một xu thế được triển khai trên thế giới, giúp phủ sóng để cung cấp đường truyền băng rộng với tới tất cả mọi vùng trên toàn cầu.
Đây là một lựa chọn bổ sung để cung cấp kết nối internet giúp giảm bớt sự phụ thuộc vào các tuyến cáp quang biển, đồng thời đa dạng kết nối internet quốc tế cho những nhóm người dùng khác nhau.
Đồng quan điểm, ông Đậu Anh Tuấn, Trưởng ban Pháp chế VCCI cho rằng các quy định trong dự thảo hiện nay chưa thực sự thể hiện hay phục vụ mục tiêu này. Bên cạnh những thủ tục hành chính mới phát sinh, Dự thảo còn có những quy định có thể ảnh hưởng tiêu cực đến hoạt động đầu tư, kinh doanh của các doanh nghiệp trong vào ngoài lĩnh vực viễn thông, và chưa thực sự nắm bắt những xu hướng phát triển công nghệ.
Nắm bắt xu thế để phát triển
Một trong những mục tiêu của sửa đổi Luật Viễn thông lần này là nhằm “thúc đẩy hạ tầng viễn thông phát triển phục vụ cho nền kinh tế số, phù hợp với xu thế phát triển của công nghệ”.
Theo ý kiến của bà Nguyễn Việt Hà, Phó Chủ tịch Hiệp hội Thương Mại Hoa Kỳ tại Hà Nội (AmCham Hanoi), một xu hướng trong ngành viễn thông đang được nhiều quốc gia trên thế giới quan tâm hiện nay đó là sự phát triển dịch vụ viễn thông qua vệ tinh.
Đại diện hiệp hội cho biết, dịch vụ internet vệ tinh sẽ tạo điều kiện phát triển do những lợi thế về độ bao phủ gần như ở mọi nơi, bao gồm cả vùng sâu, vùng xa và hải đảo. Khi sử dụng dịch vụ này, sẽ không phải đầu tư lắp đặt các hệ thống cáp biển hay đường truyền vốn cần đầu tư lớn và tính ổn định không cao.
Sự phát triển của các dịch vụ internet vệ tinh xuyên biên giới có thể trở thành một lựa chọn bổ sung hiệu quả giúp giảm bớt sự phụ thuộc vào các tuyến cáp và đường truyền và đa dạng kết nối Internet quốc tế cho những nhóm người dùng khác nhau.
Hiện nay, dịch vụ này đã được triển khai ở một số quốc gia trong khu vực như Nhật Bản, Philippines, Indonesia,… Do đó, đại diện hiệp hội đã kiến nghị Luật Viễn thông (sửa đổi) cần dự đoán trước xu thế này và có những quy định khuyến khích hoặc cho phép các dịch vụ internet vệ tinh xuyên biên giới được cung cấp nếu doanh nghiệp cung cấp dịch vụ này có văn phòng đại diện tại Việt Nam hoặc ký kết hợp đồng thương mại với một doanh nghiệp viễn thông trong nước.