Mô hình kinh tế này cổ võ con người nên sống theo “chánh nghiệp”. Rất tiếc, đến nay chưa có Phật tử nào triển khai áp dụng hoặc lấy đó làm bàn đạp suy nghĩ tiếp về một đường hướng phát triển vừa hợp với những phạm trù và xu thế của thời đại, vừa hợp với hoàn cảnh của đất nước và vừa hợp với tinh thần Đạo Phật. Schumacher là một bậc trí tuệ lớn, một nhà tiên tri của phong trào sinh thái từ hai thập niên qua.
Trong cùng trăn trở và nỗ lực truy tầm một nội dung phát triển mới, không ngầm chứa đại họa cho nhân loại, Meadows đã công bố năm 1972 “Phúc trình thứ nhất” cho “Câu lạc bộ Rome” về “Những giới hạn của phát triển”. Phúc trình này đã được dịch ra 29 thứ tiếng, là tiếng chuông đầu tiên vang dội khắp toàn cầu, đánh thức con người phải suy nghĩ lại và đặt lại vấn đề phát triển. Tiếp theo đó “Global 2000” – “Phúc trình lên tổng thống Mỹ” 1980, Mô hình Thế giới Brundtland 1987, v. v… đã đề nghị những nội dung phát triển bền vững, không phá hoại những cơ hội phát triển của thế hệ mai sau.
Hội nghị Thượng đỉnh về quả đất 1992 của 178 nước trên thế giới tại Rio de Janeiro, có thể xem như là một cuộc tổng kết chung, với khẳng định rằng, để “phát triển lâu bền”, phải “bảo vệ môi trường”.
Hội nghị thượng đỉnh Rio 1992, tuy gặp phải nhiều ngờ vực và chỉ trích, song đó là một cố gắng lớn, nhằm tạo khúc quanh mới cho sự phát triển bền vững gắn liền với bảo vệ môi trường. Nó đã trở thành biểu tượng của một ý thức mới sự hợp quần chung lãnh trách nhiệm xây dựng cho “một thế giới” (xóa bỏ sự phân chia “thế giới thứ nhất”, “thế giới thứ hai” và “thế giới thứ ba”).
Sự “phát triển lâu bền” được quan niệm như là một sự phát triển nhằm thỏa mãn những nhu cầu cơ bản về vật chất, tinh thần và văn hóa cho cả thế hệ hiện tại lẫn thế hệ tương lai. Một mặt, nó đòi hỏi phải cải thiện những điều kiện sống trên lãnh vực kinh tế và xã hội sao cho phù hợp với sự bảo tồn tài nguyên thiên nhiên.
Mặt khác, nó đòi hỏi một sự quan tâm và chịu trách nhiệm chung về những vấn đề môi sinh, kinh tế, văn hóa và xã hội, trên bình diện quốc gia cũng như quốc tế. “Sự phát triển lâu bền” được nhất thể hóa với “sự bảo vệ môi trường”. Trong sự nhất thể hóa này, nội dung của “sự phát triển lâu bền” bao gồm 4 điểm cơ bản:
1. Đáp ứng được những nhu cầu cơ bản của người dân,
2. San bằng hố sâu cách biệt giữa giàu nghèo và hoàn cảnh xã hội,
3. Bảo tồn các nguồn tài nguyên thiên nhiên và gìn giữ sự trong sạch của môi trường,
4. Tạo những điều kiện tốt giúp con người nhận thức được giá trị làm người, hiểu rõ được những vấn đề chung của nhân loại và biết rõ những gì ưu tiên cần phải thực hiện trước, cũng như giúp con người đạt được quyền tự quyết trong cộng đồng.
Về mặt “bảo vệ mội trường”, chúng ta không thể hiểu một cách hạn hẹp rằng đó chỉ là chống ô nhiễm không khí, đất đai, sông suối hoặc bảo vệ những loài hoang dại trước sự diệt chủng. Nội dung của thuật ngữ môi trường, trên mặt xã hội, được hiểu là hoàn cảnh của con người, của gia đình và của tập thể.
Về mặt không gian, môi trường là địa bàn, là khu vực sinh sống của con người dù cho rộng hẹp như thế nào chăng nữa. Đó là những công trình xây dựng. Đó là làng xã, huyện tỉnh, quốc gia và sinh quyển. Về mặt sinh vật và sinh thái học, môi trường bao gồm giới vô sinh (đất, nước, không khí) và hữu sinh (con người, giới động và thực vật). Bởi vậy “bảo vệ môi trường”, trên khía cạnh sinh thái, không chỉ giới hạn trong mục tiêu bảo vệ thiên nhiên và quy hoạc cảnh quan. Nó còn bao gồm mục tiêu làm thanh lịch quê hương, đất nước, các nơi giải trí, du lịch và mạng lưới cây xanh trong thành phố.
Về mặt vệ sinh và công nghiệp, mục đích của “bảo vệ môi trường” bao gồm sự giữ sạch môi trường không khí, nước và đất đai, cũng như xử lí rác và những chất độc hóa học, làm giảm sự gay gắt của thời tiết và ngăn ngừa các tia độc hại.
Để thực hiện “sự phát triển lâu bền” gắn liền với “sự bảo vệ môi trường”, cần phải thi hành triệt để hàng loạt biện pháp, chủ yếu là ổn định dân số, tăng hiệu năng của sự sử dụng năng lượng, sử dụng năng lượng mặt trời và sức gió, sử dụng tiết kiệm các nguồn nguyên liệu, ổn định hệ sinh thái nông và lạm nghiệp, phân phối kỹ nghệ, giảm thiểu và xử lý ô nhiễm.
Về mặt tinh thần, con người phải thay đổi quan niệm đánh giá thiên nhiên một cách hời hợt, nhất là phải thay đổi thói quen tiêu dùng.
Nội dung của quan niệm “phát triển lâu bền” trong nhất thể với “bảo vệ môi trường” trên đây, gặp gỡ rất nhiều điểm trong nội dung con đường sống Bi Trí Dũng mà Đức Phật chỉ dạy cho những “ai không ngoan muốn tìm hạnh phúc và ước mong sống với an lành”. Nội dung này, một phần đã được mô tả qua Kinh Từ Bi. Thiết nghĩ cũng nên ôn lại vài điều:
Thứ nhất, mục đích tối thượng của con đường Bi Trí Dũng là “Đem an vui đến cho muôn loài”. “An vui” là ý nghĩa chân thật của cuộc sống. Ý nghĩa này không nằm trong giàu sang, địa vị, quyền bính hoặc danh vọng. An vui chỉ đạt được, khi ba điều kiện tối thiểu sau đây được thỏa mãn: đó là nhu cầu vật chất tối thiểu được đáp ứng, đó là ô nhiễm, đe dọa và hiểm họa của môi trường được tiêu trừ và tâm hồn được sung mãn với những giá trị Chân Thiện Mỹ. Nhưng an vui không chỉ dành riêng cho con người mà phải lan rộng đến “muôn loài”, đến chúng sinh, đến tất cả mọi tình thế.
Để phục vụ “muôn loài” trước tiên phải đạt đến một trình độ nhận thức rất cao. Đó là sự thấy rõ tính bình đẳng của sự sống và giá trị bình đẳng của sự sống trong mọi sinh thể. Nền tảng của nhận thức này là sự hiểu biết rõ ràng về đời sống và điều kiện sống của các sinh thể, về tác động qua lại của chúng, về nguyên nhân và hệ quả thiện ác, đồng thời hoặc dị thời của mạng lưới duyên sinh trong dòng sinh thành di diệt vô tận.
Kế tiếp là phải mở rộng con tim, một con tim biết thương yêu và quí trọng sự sống tràn đầy khắp nơi nơi, bất luận trên địa bàn nào, tại sinh cảnh và trú quán nào, dù “ở gần ta hoặc ở xa ta “ (Kinh Từ Bi), trên không, tại mặt đất, dưới đất, trong nước v. v…. (“Tầng trên, phía dưới và khoảng giữa”, Kinh Từ Bi, Thích Thiện Châu dịch Việt).
Thứ hai, sự đem an vui đến cho muôn loài đòi hỏi một ý thức về giá trị bình đẳng của sự sống xuyên thấu thời gian, từ thế hệ này đến thế hệ khác (“Đã sinh rồi hoặc sắp sinh ra”, Kinh Từ Bi). Cuộc sống và sự phát triển của chúng ta hôm nay, không thể cướp mất những điều kiện sống và cơ hội phát triển của con cháu ngày mai, không thể để lại ô nhiễm và hiểm họa cho hậu duệ và phó mặc chúng giải quyết như thế nào cũng được.
Đạo Phật đã không ngừng khuyên nhủ Phật tử phải thực hiện hạnh tinh tấn: “Cố gắng tiêu trừ những điều ác đã sinh. Cố gắng đè nén những điều ác có thể phát sinh. Cố gắng làm cho những điều thiện phát sinh. Cố gắng phát huy điều thiện đã sinh”. Tinh thần là sức mạnh chuyển đổi bền bỉ, có khả năng tiêu trừ tiêu cực và mang chất lượng của Chân Thiện Mỹ đến cho đời.
Thứ ba, sự đem an vui đến cho muôn loài, đòi hỏi một quyết tâm nhận lấy trách nhiệm vì muôn loài. Trách nhiệm này cần được thể hiện một cách rốt ráo, với tất cả con tim và dũng lực của một bà mẹ thương đứa con duy nhất, “dám hy sinh bảo vệ cho con” (Kinh Từ Bi).
Ba điều vừa nêu trên trong con đường Bi Trí Dũng có thể giúp Phật tử chúng ta khỏi chạy quanh tìm kiếm những nội dung và nguyên tắc hành động khác, hầu đóng góp tốt hơn cho đường hướng phát triển lâu bền gắn liền với sự bảo vệ môi trường hiện nay. Vấn đề còn lại là Phật tử có thể làm gì một cách cụ thể?
Dĩ nhiên mỗi người có thể tự tìm câu trả lời riêng và hành động thích ứng với khả năng và hoàn cảnh của mình; song, Phật tử cũng có thể chung nhau tìm những việc cụ thể vừa hợp với khế lý và khế cơ, vừa có khả năng cổ động sự trợ lực của nhiều người.
> Câu chuyện toàn cầu & sự thách thức đối với đạo Phật
Tiến sỹ Lê Văn Tâm
Đại học Gottinggen, Cộng hòa Liên bang Đức